Chương 1: Đức Phật—the Buddha (2024)

Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) Việt - Anh Volume I

  • Chương 1: Đức Phật—the Buddha
  • Chương 2: Đạo Phật—buddhism
  • Chương 3: Nhân Sinh Quan Và Vũ Trụ Quan Phật Giáo—buddhist Points Of View On Human Life And Buddhist Cosmology
  • Chương 4: Chuyển Pháp Luân Và Năm Đệ Tử Đầu Tiên—turning The Wheel Of Dharma And The First Five Disciples
  • Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—buddhist Councils
  • Chương 6: Tam Bảo Và Tam Tạng Kinh Điển—triple Jewels And Three Buddhist Canon Baskets
  • Chương 7: Kinh Và Những Kinh Quan Trọng—luật—luận—sutras And Important Sutras-rules-commentaries
  • Chương 8: Đạo Và Trung Đạo—path And Middle Path
  • Chương 9: Vi Diệu Pháp—abhidharma
  • Chương 10: Tam Thời Pháp—three Periods Of The Buddha’s Teachings
  • Chương 11: Thân Quyến—the Buddha’s Relatives
  • Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—ten Great Disciples
  • Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—other Famous Disciples
  • Chương 14: Giáo Đoàn Tăng Và Giáo Đoàn Ni—monk And Nun Orders
  • Chương 15: Tứ Động Tâm—four Buddhist Holy And Sacred Places
  • Chương 16: Những Thánh Tích Khác—other Sacred Places
  • Chương 17: Những Đại Thí Chủ—great Donators
  • Chương 18: Những Vị Có Công Với Phật Giáo—those Who Had Helped Maintaining Buddhism

THIỆN PHÚC
PHẬT PHÁP CĂN BẢN
BASIC BUDDHIST DOCTRINES
VIỆT-ANHVIETNAMESE-ENGLISH
Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
VOLUME I

CHƯƠNGMỘT
CHAPTERONE

ĐứcPhật
TheBuddha

(A)Đại cươngvề Đức Phật—An overview of the Buddha
(B)Nghĩa của chữ Phật—The meanings of the words Buddha
(C)Ngày Phật Đản Sanh—Buddha’s Birth Day—Vesak (skt)
(D)Đức Phật Lịch Sử Thích Ca Mâu Ni—The historical Buddha Sakyamuni
(E)Bốn Cảnh làm thay đổi cuộc đời Đức Phật—Four sightswhich changed the Buddha’s life
(F)Sáu năm khổ hạnh của Đức Phật—Six Years of Ascetic praticingof the Buddha
(G)Đức Phật là Đấng thứ nhất trong Tam Bảo—Sakyamuni Buddhais the first person of the Trinity
(H)Khái niệm về Đức Phật trong Phật giáo Nguyên Thủy—TheBuddha concept in Theravada Buddhism—See Chapters 123 and 156
(I)Đức Phật theo quan điểm củaTruyền Thống Thiền—TheBuddha in the point of view of Zen Tradition
(J)Các tên khác của một vị Phật—Other names (appellations) ofa Buddha
(K)Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn—In the heavens aboveand earth beneath I alone am the honoured one
(L)Tám Thời Kỳ Trong Cuộc Đời Đức Phật—Eight aspects of Buddha’slife
(M)Sự im lặng của Đức Phật—Silence of the Buddha
(N)Bảy Nơi Đặc Biệt sau khi Đức Phật thành đạo--Seven Specialplaces after the Buddha’s Enlightenment
(O)Bài Pháp Đầu Tiên—First Sermon
(P)Chín Sự Phiền Não của Đức Phật—Nine distresses
(Q)Bốn Mươi Sáu Mùa An Cư Kiết Hạ Của Đức Phật—Forty-sixRainy Season Retreats of the Buddha
(R)Những lời di giáo cuối cùng của Đức Phật—Last teachingsof the Buddha
(S)Những Nơi liên hệ đến sự hoạt động của Đức Phật—Placesthat are related to the Buddha’s life and activities
(T)Hình Ảnh Đức Phật qua Kinh Pháp Cú—The Image of the Buddhain the Dharmapada Sutra
(U)Xá Lợi Phật—The Buddha’s Sari—The Buddha’s Relics or remains

(A)Đại cươngvề Đức Phật
Anoverview of the Buddha

(I)Phật Ra Đời Vì Một Đại Sự Nhân Duyên—For the sakeof a great cause, or because of a great matter: Phật xuất hiện vìmột đại sự nhân duyên: Khai thị cho chúng sanh ngộ nhậptri kiến Phật, hay là giác ngộ theo kinh Pháp Hoa, Phật tánhtheo kinh Niết Bàn và thiên đường cực lạc theo kinh Vô LượngThọ—For the sake of a great cause, or because of a great matter—TheBuddha appeared, for the changing beings from illusion into enlightenment(according to the Lotus Sutra), or the Buddha-nature (according to theNirvana Sutra), or the joy of Paradise (according to the Infinite LifeSutra).

(II)Đức Phật là một chúng sanh duy nhất, một con người phithường, xuất hiện trong thế gian nầy—TheBuddha is a unique being, an extraordinary man arises in this world: Theokinh Tăng Nhất A Hàm, Đức Phật là một chúng sanh duy nhất,một con người phi thường, xuất hiện trong thế gian nầy,vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc của chúng sanh, vìlòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp của chư nhơn Thiên. Đức Phậtđã khai sáng ra đạo Phật. Có người cho rằng đạo Phậtlà một triết lý sống chứ không phải là một tôn giáo.Kỳ thật, Phật giáo không phải là một tôn giáo theo lốiđịnh nghĩa thông thường, vì Phật giáo không phải là mộthệ thống tín ngưỡng và tôn sùng lễ bái trung thành vớimột thần linh siêu nhiên. Đạo Phật cũng không phải là mộtthứ triết học hay triết lý suông. Ngược lại, thông điệpcủa Đức Phật thật sự dành cho cuộc sống hằng ngày củanhân loại: “Tránh làm điều ác, chuyên làm việc lành vàthanh lọc tâm ý khỏi những nhiễm trược trần thế.” Thôngđiệp nầy ra đời từ sự thực chứng chân lý của ĐứcPhật. Dù sống trong cung vàng điện ngọc với đủ đầy vậtchất xa hoa, Đức Phật vẫn luôn suy tư sâu xa tại sao chúngsanh phải chịu khổ đau phiền não trên cõi trần thế nầy.Cái gì gây nên sự khổ đau phiền não nầy? Một ngày nọ,lúc thiếu thời của Đức Phật, khi đang ngồi dưới mộttàng cây, Ngài bỗng thấy một con rắn xuất hiện và đớplấy một con lươn. Trong khi cả hai con rắn và lươn đang quầnthảo, thì một con diều hâu sà xuống chớp lấy con rắn vớicon lươn còn trong miệng. Sự cố nầy là một thời điểmchuyển biến quan trọng cho vị hoàng tử trẻ về việc thoátly cuộc sống thế tục. Ngài thấy rằng sinh vật trên cõiđời nầy chẳng qua chỉ là những miếng mồi cho nhau. Mộtcon bắt, còn con kia trốn chạy và hễ còn thế giới nầylà cuộc chiến cứ mãi dằng co không ngừng nghỉ. Tiến trìnhsăn đuổi và tự sinh tồn không ngừng nầy là căn bản củabất hạnh. Nó là nguồn gốc của mọi khổ đau. Chính vìthế mà Thái tử quyết tâm tìm phương chấm dứt sự khổđau nầy. Ngài đã xuất gia năm 29 tuổi và sáu năm sau, Ngàiđã thành đạo. Theo Đức Phật, luật “Nhơn Quả NghiệpBáo” chi phối chúng sanh mọi loài. Nghiệp có nghĩa đơn giảnlà hành động. Nếu một người phạm phải hành động xấuthì không có cách chi người đó tránh khỏi được hậu quảxấu. Phật chỉ là bậc đạo sư, chỉ dạy chúng sanh cáigì nên làm và cái gì nên tránh, chứ Ngài không thể nào làmhay tránh dùm chúng sanh được. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phậtđã chỉ dạy rõ ràng: “Bạn phải là người tự cứu lấymình. Không ai có thể làm gì để cứu bạn ngoại trừ chỉđường dẫn lối, ngay cả Phật”—According to the AnguttaraNikaya, the Buddha is a unique being, an extraordinary man arises in thisworld for the benefit of sentient beings, for the happiness of sentientbeings, out of compassion for the world, and for the good of gods and men.The Buddha founded Buddhism. Some says that Buddhism is a philosophy oflife, not a religion. In fact, Buddhism is not strictly a religion in thesense in which that word is commonly understood, for it is not a systemof faith and worship to a supernatural god. Buddhism is neither a philosophy.In the contrary, the Buddha’s message isreally for human beingsin daily life: “Keeping away from all evil deeds, cultivation of a morallife by doing good deeds and purification of mind from worldly impurities.”This message originated from the Buddha’s realization of the Truth. Asa prince living in the lap of luxury, the Buddha started to ponder verydeeply on why living beings suffer in this world. He asked himself: “Whatis the cause of this suffering?” One day while sitting under a tree asa young boy, he saw a snake suddenly appear and catch an eel. As the snakeand the eel were struggling, an eagle swooped down from the sky and tookaway the snake with the eel still in its mouth. That incident was the turningpoint for the young prince to start thinking about renouncing the worldlylife. He realized that living beings on the earth survive by preying oneach other. While one being tries to grab and the other tries to escapeand this eternal battle will continue forever. This never-ending processof hunting, and self-preservation is the basis of our unhappiness. It isthe source of all suffering. The Prince decided that he would discoverthe means to end this suffering. He left His father’s palace at the ageof 29 and six years later he gained enlightenment. According to the Buddha,the Law of Cause and Effect controls all beings. Karma simply means action.If a person commits a bad action (karma) it will be impossible for thatperson to escape from its bad effect. The Buddha is only a Master, whocan tell beings what to do and what to avoid but he cannot do the workfor anyone. In the Dhammapada Sutra, the Buddha clearly stated: “Youhave to do the work of salvation yourself. No one can do anything for anotherfor salvation except to show the way.”

(B)Nghĩa của chữ Phật
Themeanings of the words Buddha

1)Chữ Phật không phải là một danh từ riêng mà là một từcó nghĩa là “Bậc Giác Ngộ” hay “Bậc Đại Giác.” Tháitử Sĩ Đạt Tha không phải sanh ra để được gọi là Phật.Ngài không sanh ra tự nhiên giác ngộ, mà phải với nỗ lựctự thân, Ngài mới đạt đến Giác Ngộ. Bất cứ chúng sanhnào thành tâm và cố gắngvượt thoát khỏi mọi vướngmắc đều có thể giác ngộ và thành Phật được. Tất cảPhật tử nên luôn nhớ rằng Đức Phật không phải là mộtvị thần linh. Cũng như chúng ta, Đức Phật sanh ra là mộtcon người. Sự khác biệt giữa Đức Phật và phàm nhân làĐức Phật đã giác ngộ còn phàm nhân vẫn còn mê mờ. Tuynhiên, dù giác hay dù mê thì Phật tánh nơi ta và Phật tánhnơi Phật không sai khác: The word Buddha is not a proper name, buta title meaning “Enlightened One” or “Awakened One.” Prince Siddharthawas not born to be called Buddha. He was not born enlightened; however,efforts after efforts, he became enlightened. Any beings who sincerelytry can also be freed from all clingings and become enlightened as theBuddha. All Buddhists should be aware that the Buddha was not a god orany kind of supernatural being. Like us, he was born a man. The differncebetween the Buddha and an ordinary man is simply that the former has awakenedto his Buddha nature while the latter is still deluded about it. However,whether we are awakened or deluded, the Buddha nature is equally presentin all beings.

2)Danh hiệu của một bậc đã xé tan bức màn vô minh, tự giảithoát mình khỏi vòng luân hồi sanh tử, và thuyết giảng conđường giải thoát cho chúng sanh. Chữ “Buddha” lấy từgốc Phạn ngữ “Budh” có nghĩa là giác ngộ, chỉ ngườinào đạt được Niết Bàn qua thiền tập và tu tập nhữngphẩm chất như trí tuệ, nhẫn nhục, bố thí. Con người ấysẽ không bao giờ tái sanh trong vòng luân hồi sanh tử nữa,vì sự nối kết ràng buộc phàm phu tái sanh đã bị chặtđứt. Qua tu tập thiền định, chư Phật đã loại trừ tấtcả những tham dục và nhiễm ô. Vị Phật của hiền kiếplà Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài sanh ra với tên là Tất ĐạtĐatrong dòng tộc Thích Ca: An epithet of those who successfullybreak the hold of ignorance, liberate themselves from cyclic existence,and teach others the path to liberation. The word “Buddha” derivedfrom the Sanskrit root budh, “to awaken,” it refers to someone whoattains Nirvana through meditative practice and the cultivation of suchqualities as wisdom, patience, and generosity. Such a person will neveragain be reborn within cyclic existence, as all the cognitive ties thatbind ordinary beings to continued rebirth have been severed. Through theirmeditative practice, buddhas have eliminated all craving, and defilements.The Buddha of the present era is referred to as “Sakyamuni” (Sage ofthe Sakya). He was born Siddhartha Gautama, a member of the Sakya clan.

3)Phật là Đấng Toàn Giác hay một người đã giác ngộ viênmãn: về chân tánh của cuộc sinh tồn. Chữ Phật có nghĩalà tự mình giác ngộ, đi giác ngộ cho người, sự giác ngộnầy là viên mãn tối thượng: The Buddha is One awakened or enlightenedto the true nature of existence. The word Buddha is the name for one whohas been enlightened, who brings enlightenment to others, whose enlightenedpractice is complete and ultimate.

4)Từ Buddha” được rút ra từ ngữ căn tiếng Phạn “Budh”nghĩa là hiểu rõ, thấy biết hay tỉnh thức. Phật là ngườiđã giác ngộ, không còn bị sanh tử luân hồi và hoàn toàngiải thoát—The term Buddha derived from the Sanskrit verb root “Budh”meaning to understand, to be aware of, or to awake. It describes a personwho has achievedthe enlightenment that leads to release from thecycle of birth and death and has thereby attained complete liberation.

5)Tàu dịch là “Giác” và “Trí”. Phật là một người đãgiác ngộ và giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử: Chinesetranslation is “to perceive” and “knowledge.” Buddha means a personwho has achieved the enlightenment that leads to release from the cycleof birth and death and has thereby attained complete liberation.

6)Phật là bậc giác giả—The Buddha is the Enlightened One: Có babậc giác—There are three degrees of enlightenment:

a)Tự Giác: Svabodhi (skt)—Enlightenment derived from one’s self.

LờiPhật dạy về “Tự Giác Ngộ” trong Kinh Pháp Cú—The Buddha’steachings on “Self-enlightenment” in the Dharmapada Sutra: “Cácngươi hãy tự nỗ lực lên! Như Lai chỉ dạy cho con đườnggiác ngộ, chứ không giác ngộ cho ai được. Sự trói buộccủa ma vương sẽ tùy sức thiền định của các ngươi màđược cởi mở—You should make an effort by yourself! The Tathagatasare only teachers. The Tathagatas cannot set free anyone. The meditativeones, who enter the way, are delivered from the bonds of Mara.” (Dharmapada276).
b)Giác tha—Enlighten others.
c)Giác Hạnh Viên Mãn—Attain the Buddhahood.

7)Phật là Đấng Giác Ngộ Đại Từ—The Buddha is the EnlightenedOne with Great Loving Kindness:

a)Tự Lợi: Benefiting and perfecting of the self (to benefit oneself)
i)Tự cải thiện (tu hành) lấy mình với mục đích làm lợiích cho người khác—To improve oneself for the purpose of improvingor benefiting others.
ii)Tự lợi lợi tha và từ bi không ngằn mé là giáo thuyết chínhcủa trường phái Đại Thừa—Self-benefiting for the benefit ofothers, unlimited altruism and pity being the theory of Mahayana.
iii)“Tự lợi lợi tha” là tính chất thiết yếu trong tu tậpcủa một vị Bồ Tát, làm lợi mình, làm lợi người, haytự mình tu tập trong khuôn khổ nhà Phật để cứu độ ngườikhác. Tiểu Thừa coi việc tự lợi, tự độ là chính yếu;trong khi Bồ Tát Đại Thừa thì hành Bồ Tát Đạo vị thalà thiết yếu, tự tiến tu, rồi giúp người tiến tu—“Selfprofit profit others,” the essential nature and work of a Bodhisattva,to benefit himself and benefit others, or himself press forward in theBuddhist life in order to carry others forward. Hinayana is consideredto be self-advancement, self-salvation by works or discipline; BodhisattvaBuddhism as saving oneself in order to save others, or making progressand helping others to progress, Bodhisattvism being essentially altruistic.
b)Lợi Tha: Benefiting or perfecting of others (to benefit others).
c)Giác Hạnh Viên Mãn: Attaining of Buddhahood.

(C)Ngày Phật Đản Sanh
Buddha’sBirth Day
Vesak(skt)

(I)Tổng quan về ngày Phật Đản—An overview of the Buddha’sBirth Day:

1)Vẫn còn nhiều bàn cãi về năm sanh chính xác của Đức Phật;tuy nhiên ý kiến của phần đông chọn năm 623 trước TâyLịch. Ngày Phật đản sanh là ngày trăng tròn tháng 5. đólà một ngày tuyệt đẹp. Tiết trời trong sạch, gió mát thoangthoảng. Trong vườn trăm hoa đua nở, tỏa hương ngào ngạt,chim hót líu lo… tạo thành một cảnh tượng thần tiên ởthế gian để đón chào sự đản sanh của Thái Tử. Theo truyềnthuyết Ấn Độ thì lúc đó đất trời rung động, từ trêntrời cao tuôn đổ hai dòng nước bạc, một ấm một mát,tắm gội cho thân thể của Thái Tử. Ngày nay các quốc giatheo truyền thống Phật giáo, tổ chức ngày Đại lễ PhậtĐản vào khoảng giữa tháng tư âm lịch. Cũng theo truyềnthuyết Ấn Độ, ngày Phật Đản sanh đáng tin cậy, có lẽvào ngày mồng 4 tháng 8; tuy nhiên, tất cả các nước theoPhật giáo lấy ngày trăng tròn tháng tư làm lễ kỷ niệm—Thereare still some discussions over the exact year of the Buddha’s birth;however, the majority of opinions favor 623 B.C. The Buddha’s birthdaywas the day of the full moon in May. It was a beautiful day. The weatherwas nice and a gentle breeze was blowing. All the flowers in the LumbiniPark were blooming, emitting fragrant scents, and all the birds were singingmolodious songs. Together, they seemed to have created a fairy land onearth to celebrate the birth of the Prince, a coming Buddha. Accordingto the Indian legendaries, at that time, the earth shook, and from thesky, two silvery currents of pure water gushed down, one was warm and theother cool, which bathed the body of the Prince. Nowadays, countries withBuddhist tradition usually celebrate the Buddha’s Birthday around themiddle of the fourth month of the Lunar Year. Also according to Indianlegends, the more reliable Buddha’s Birth Day, perhaps on the 4th month,8Th day; however, all Buddhist countries obseve the Full Moon Day of theLunar month of Vaisakha (April-May) as Buddha Birth Day Anniversary.

2)Đối với cộng đồng Phật giáo, ngày lễ quan trọng nhấtnhất là ngày lễ Phật Đản. Đó là ngày trăng tròn thángnăm (dương lịch). Hằng triệu người trên thế giới cửhành lễ Phật Đản. Ngày này được gọi là ngày Vesak tạixứ Tích Lan, ngày Visakha Puja tại Thái Lan. Vào ngày này, Phậttử tại vài xứ như Trung Hoa, Đại Hàn tham dự vào lễ “TắmPhật.” Họ rưới nước thơm vào tượng Phật Đản Sanh.Việc này tượng trưng cho thanh tịnh nơi tâm ý và hành động.Chùa viện được trang hoàng bông hoa cờ phướn; trên bànthờ đầy lễ vật cúng dường. Những bữa cơm chay đượcdọn ra cho mọi người. Người ta làm lễ phóng sanh. Đây đượcxem như là ngày thật vui cho mọi người—For the Buddhist community,the most important event of the year is the celebration of the birth ofthe Buddha. It falls on the full-moon day in May. This occasion is observedby millions of Buddhists throughout the world. It is called Vesak in SriLanka, Visakha Puja in Thailand. On this day, Buddhists in some countrieslike China and Korea would take part in the ceremonial bathing of the Buddha.They pour ladles of water scented with flower petals over a statue of thebaby Buddha. This symbolizes purifying their thoughts and actions. Thetemple are elegantly decorated with flowers and banners; the altars arefull of offerings. Vegetarian meals are provided for all. Captive animals,such as birds and turtles, are set free from their cages. This is a veryjoyous day for everyone.

(II)Ngày Phật Đản theo truyền thống Nguyên Thủy—TheBuddha’s Birth Day according to the Theravada Tradition: Theo truyềnthống Nguyên Thủy, ngày Phật Đản sanh, có lẽvào ngàymồng 8 tháng 4; tuy nhiên, tất cả các nước theo Phật giáolấy ngày trăng tròn tháng tư làm lễ kỷ niệm. Đây là mộttrong những ngày lễ quan trọng nhất của Phật giáo, vì ngàyđó vừa là ngày Đức Phật đản sanh, thành đạo và đạtniết bàn: According to the Theravada tradition, the Buddha’s BirthDay, perhaps on the 4thmonth, 8Th day; however, all Buddhist countriesobserve the Full Moon Day of the Lunar month of Vaisakha (April-May) asBuddha Birth Day Anniversary. This is one of the major festivals of Buddhismbecause most Buddhist countries celebrate the day on which the Buddha wasborn, attained awakening, and passed into nirvana.

(II)Ngày Phật Đản theo truyền thống Đại Thừa—The Buddha’sBirth Day according to the Mahayana Tradition: Theo truyền thống ĐạiThừa, ngày rằm tháng tư là ngày mà các nước theo truyềnthống Phật giáo tổ chức ngày lễ kỷ niệm Phật Đản sanh,xuất gia, thành đạo và nhập Niết bàn. Lễ Vesak gồm cómột thời giảng pháp, một buổi quán niệm về cuộc đờiĐức Phật, các cuộc rước xung quanh nơi thờ. Ngoài ra ngàyVesak còn là dịp nhắc nhở chúng ta cố gắng đạt tới Đạigiác:According to the Mahayana tradition, the month correspondingto April-May, on the Full Moon day of which is celebrated the Birth, Renunciation,Enlightenment and Parinirvana of the Buddha. The Vesak celebration consistsof the presentation of the teaching, contemplation of the life of Buddha,the process around the secred sites. Furthermore, Vesak festival goes beyondmere hirtorical commemoration; it is a reminder for each of us to striveto become enlightened.

(D)Đức Phật Lịch Sử Thích Ca Mâu Ni
Thehistorical Buddha Sakyamuni

(I)Đức Phật Lịch Sử là đấng đã hoàn toàn đạt tới Chánhđẳng Chánh giác—The historical person with the name of Siddhattha,a Fully Enlightenment One. One who has reached the Utmost, Right and EqualEnlightenment:

1)Vì thiếu thông tin và sự kiện cụ thể chính xác nên bâygiờ chúng ta không có niên đại chính xác liên quan đến cuộcđời của Đức Phật. Người Ấn Độ, nhất là những ngườidân ở vùng Bắc Ấn, thì cho rằng Đức Phật nhập diệtkhoảng 100 năm trước thời vua A Dục. Tuy nhiên, các học giảcận đại đều đồng ý rằng Ngài đã được đản sanh vàokhoảng hậu bán thế kỷ thứ bảy trước Tây lịch và nhậpdiệt 80 năm sau đó. Phật là Đấng Chánh Biến Tri, đản sanhvào năm 623 trước Tây lịch, tại miền bắc Ấn Độ, bâygiờ là xứ Népal, một nước nằm ven sườn dãy Hy Mã LạpSơn, trong vườn Lâm Tỳ Ni trong thành Ca Tỳ la Vệ, vào mộtngày trăng tròn tháng tư. Cách đây gần 26 thế kỷ dòng họThích Ca là một bộ tộc kiêu hùng của dòng Sát Đế Lợitrong vùng đồi núi Hy Mã Lạp Sơn. Tên hoàng tộc của Ngàilà Siddhartha, và họ của Ngài là Gautama, thuộc gia đình danhtiếng Okkaka của thị tộc Thái Dương. Dòng họ nầy có mộtđức vua hiền đức là vua Tịnh Phạn, dựng kinh đô ở CaTỳ La Vệ, vị chánh cung của đức vua nầy là hoàng hậuMa Gia. Khi sắp lâm bồn, theo phong tục thời ấy, hoàng hậuxin phép đức vua trở về nhà song thân mình ở một kinh thànhkhác, đó là Devadaha để sanh nở. Giữa đường hoàng hậumuốn nghỉ ngơi trong vường Lâm Tỳ Ni, một khu vườn tỏangát hương hoa, trong lúc ong bướm bay lượn và chim muông đủsắc màu ca hót như thể vạn vật đều sẳn sàng chào đónhoàng hậu. Vừa lúc bà đứng dưới một tàng cây sala đầyhoa và vin lấy một cành đầy hoa, bà liền hạ sanh một hoàngtử, là người sau nầy trở thành Đức Phật Cồ Đàm. Đólà ngày rằm tháng tư năm 623 trước Tây lịch. Vào ngày lễđặt tên, nhiều vị Bà La Môn thông thái được mời đếnhoàng cung. Một ẩn sĩ tên A Tư Đà tâu với vua Tịnh Phạnrằng sẽ có hai con đường mở ra cho thái tử: một là tháitử sẽ trở thành vị Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc tháitử sẽ xuất thế gian để trở thành một Bậc Đại Giác.A Tư Đà đặt tên thái tử là Sĩ Đạt Đa, nghĩa là “ngườiđạt được ước nguyện.” Thoạt tiên đức vua hài lòngkhi nghe điều nầy, nhưng về sau ngài lo ngại về lời tiênđoán rằng thái tử sẽ xuất thế và trở thành một vịẩn sĩ không nhà. Tuy nhiên hoan lạc liền theo bởi sầu bi,chỉ bảy ngày sau khi hoàng tử chào đời, hoàng hậu Ma Giađột ngột từ trần. Thứ phi Ba Xà Ba Đề, cũng là em gáicủa hoàng hậu, đã trở thành người dưỡng mẫu tận tụynuôi nấng thương yêu hoàng tử. Dù sống trong nhung lụa, nhưngtánh tình của thái tử thật nhân từ. Thái tử được giáodục hoàn hảocả kinh Vệ Đà lẫn võ nghệ. Một điềukỳ diệu đã xãy ra trong dịp lễ Hạ Điền vào thời thơấu của Đức Phật. Đó là kinh nghiệm tâm linh đầu đờimà sau nầy trong quá trình tìm cầu chân lý nó chính là đầumối đưa ngài đến giác ngộ. Một lần nhân ngày lễ HạĐiền, nhà vua dẫn thái tử ra đồng và đặt thái tử ngồidưới gốc cây đàocho các bà nhũ mẫu chăm sóc. Bởivì chính nhà vua phải tham gia vào lễ cày cấy, nên khi tháitử thấy phụ vương đang lái chiếc cày bằng vàng cùng vớiquần thần. Bên cạnh đó thái tử cũng thấy những con bòđang kéo lê những chiếc ách nặng nề và các bác nông phuđang nhễ nhại mồ hôi với công việc đồng áng. Trong khicác nhũ mẫu chạy ra ngoài nhập vào đám hội, chỉ còn lạimột mình thái tử trong cảnh yên lặng. Mặc dù tuổi trẻnhưng trí khôn của ngài đã khôn ngoan. Thái tử suy tư rấtsâu sắc về cảnh tượng trên đến độ quên hết vạn vậtxung quanh và ngài đã phát triển một trạng thái thiền địnhtrước sự kinh ngạc của các nhũ mẫu và phụ vương. Nhàvua rất tự hào về thái tử, song lúc nào ngài cũng nhớ đếnlời tiên đoán của ẩn sĩ A Tư Đà. Ngài vây bao quanh tháitử bằng tất cả lạc thú và đám bạn trẻ cùng vui chơi,rất cẩn thận tránh cho thái tử không biết gì về sự đaukhổ, buồn rầu và chết chóc. Khi thái tử được 16 tuổivua Tịnh Phạn sắp xếp việc hôn nhân cho ngài với công chúacon vua Thiện Giác là nàng Da Du Đà La. Trước khi xuất gia,Ngài có một con trai là La Hầu La. Măc dù sống đời nhunglụa, danh vọng, tiền tài, cung điện nguy nga, vợ đẹp conngoan, ngài vẫn cảm thấy tù túng như cảnh chim lồng cá chậu.Một hôm nhân đi dạo ngoài bốn cửa thành, Thái tử trựctiếp thấy nhiều cảnh khổ đau của nhân loại, một ônggià tóc bạc, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, lưng còng, nươnggậy mà lê bước xin ăn; một người bệnh nằm bên lề rênxiết đau đớn không cùng; một xác chết sình chương, ruồibu nhặng bám trông rất ghê tởm; một vị tu khổ hạnh vớivẻ trầm tư mặc tưởng. Những cảnh tượng nầy làm choThái tử nhận chân ra đời là khổ. Cảnh vị tu hành khổhạnh với vẻ thanh tịnh cho Thái tử một dấu chỉ đầutiên trên bước đường tìm cầu chân lý là phải xuất gia.Khi trở về cung, Thái tử xin phép vua cha cho Ngài xuất gialàm Tăng sĩnhưng bị vua cha từ chối. Dù vậy, Tháitử vẫn quyết chí tìm con đường tu hành để đạt đượcchân lý giải thoát cho mình và chúng sanh. Quyết định vôtiền khoáng hậu ấy làm cho Thái tử Sĩ Đạt Đa sau nầytrở thành vị giáo chủ khai sáng ra Đạo Phật. Năm 29 tuổi,một đêm Ngài dứt bỏ đời sống vương giả, cùng tên hầucận là Xa Nặc thắng yên cương cùng trốn ra khỏi cung, đivào rừng xâu, xuất gia tầm đạo. Ban đầu, Thái tử đếnvới các danh sư tu khổ hạnh như Alara Kalama, Uddaka Ramaputta,những vị nầy sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn uống,dãi nắng dầm mưa, hành thân hoại thể. Tuy nhiên ngài thấycách tu hành như thế không có hiệu quả, Ngài khuyên nên bỏphương pháp ấy, nhưng họ không nghe. Thái tử bèn gia nhậpnhóm năm người tu khổ hạnh và ngài đi tu tập nhiều nơikhác, nhưng đến đâu cũng thấy còn hẹp hòi thấp kém, khôngthể giải thoát con người hết khổ được. Thái tử tìmchốn tu tập một mình, quên ăn bỏ ngủ, thân hình mỗi ngàythêm một tiều tụy, kiệt sức, nằm ngã trên cỏ, may đượcmột cô gái chăn cừu đổ sữa cứu khỏi thần chết. Từđó, Thái tử nhận thấy muốn tìm đạo có kết quả, cầnphải bồi dưỡng thân thể cho khỏe mạnh. Sau sáu năm tầmđạo, sau lần Thái tử ngồi nhập định suốt 49 ngày đêmdưới cội Bồ Đề bên bờ sông Ni Liên tại Gaya để chiếnđấu trong một trận cuối cùng với bóng tối si mê và dụcvọng. Trong đêm thứ 49, lúc đầu hôm Thái tử chứng đượctúc mệnh minh, thấy rõ được tất cả khoảng đời quá khứcủa mình trong tam giới; đến nửa đêm Ngài chứng đượcThiên nhãn minh, thấy được tất cả bản thể và nguyên nhâncấu tạo của vũ trụ; lúc gần sáng Ngài chứng được Lậutận minh, biết rõ nguồn gốc của khổ đau và phương phápdứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi luân hồisanh tử. Thái tử Sĩ Đạt Đa đã đạt thành bậc Chánh ĐẳngChánh Giác, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngày thành đạocủa Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng tám tháng 12 tronglúc Sao Mai bắt đầu ló dạng. Hai tháng sau khi thành đạo,Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên là bài Chuyển Pháp Luâncho năm vị đã từng tu khổ hạnh với Ngài tại Vườn Naithuộc thành Ba La Nại. Trong bài nầy, Đức Phật dạy: “Tránhhai cực đoan tham đắm dục lạc và khổ hạnh ép xác, NhưLai đã chứng ngộ Trung Đạo, con đường đưa đến an tịnh,thắng trí, giác ngộ và Niết Bàn. Đây chính là Bát ThánhĐạo gồm chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.”Kế đó Ngài giảng Tứ Diệu Đế hay Bốn Sự Thật Cao Thượng:“Khổ, nguyên nhân của Khổ, sự diệt khổ và con đườngđưa đến sự diệt khổ.” Liền sau đó, tôn giả Kiều TrầnNhư chứng quả Dự Lưu và bốn vị còn lại xin được ĐứcPhật nhận vào hội chúng của Ngài. Sau đó Đức Phật giảngcho Yasa, một công tử vùng Ba La Nại và 54 người bạn kháccủa Yasa, tất cả những vị nầy đều trở thành các bậcA La hán. Với sáu mươi đệ tử đầu tiên, Đức Phật đãthiết lập Giáo Hội và Ngài đã dạy các đệ tử: “Ta đãthoát ly tất cả các kiết sử của cõi Trời người, chưvị cũng được thoát ly. Hãy ra đi, này các Tỳ Kheo, vì lợiích cho mọi người, vì hạnh phúc cho mọi người, vì lòngbi mẫn thế gian, vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chưThiên và loài người. Hãy thuyết pháp hoàn thiện ở phầnđầu, hoàn thiện ở phần giữa, hoàn thiện ở phần cuối,hoàn hảo cả về ý nghĩa lẫn ngôn từ. Hãy tuyên bố đờisống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh.” Cùngvới những lời nầy, Đức Phật đã truyền các đệ tửcủa Ngài đi vào thế gian. Chính Ngài cũng đi về hướng ƯuLâu Tần Loa (Uruvela). Nơi đây Ngài đã nhận 30 thanh niên quýtộc vào Tăng Đoàn và giáo hóa ba anh em tôn già Ca Diếp, chẳngbao lâu sau nhờ bài thuyết giảng về lửa thiêu đốt, cácvị nầy đều chứng quả A La Hán.Sau đó Đức Phậtđi đến thành Vương Xá (Rajagaha), thủ đô nước Ma KiệtĐà (Magadha) để viếng thăm vua Tần Bà Sa La (Bimbisara). Saukhi cùng với quần thần nghe pháp, nhà vua đã chứng quả DưLưu và thành kính cúng dường Đức Phật ngôi Tịnh Xá TrúcLâm, nơi Đức Phật và Tăng chúng cư trú trong một thời giandài. Tại đây hai vị đại đệ tử Xá Lợi Phất (Sariputra)và Mục Kiền Liên (Maggallana) đã được nhận vào Thánh chúng.Tiếp đó Đức Phật trở về thành Ca Tỳ La Vệ và nhậncon trai La Hầu La và em khác mẹ là Nan Đà vào Giáo Hội. Từgiả quê hương, Đức phật trở lại thành Vương Xá và giáohóa cho vị trưởng giả tên là Cấp Cô Độc. Nơi đây vịnầy đã dâng cúng Tịnh Xá Kỳ Viên.Từ sau khi đạtgiác ngộ vào năm 35 tuổi cho đến khi Ngài nhập Niết Bànvào năm 80 tuổi, Ngài thuyết giảng suốt những năm thángđó. Chắc chắn Ngài phải là một trong những người nhiềunghị lực nhất chưa từng thấy: 45 năm trường Ngài giảngdạy ngày đêm, và chỉ ngủ khoảng hai giờ một ngày. Suốt45 năm, Đức Phật truyền giảng đạo khắp nơi trên xứ ẤnĐộ. Ngài kết nạp nhiều đệ tử, lập các đoàn Tăng Già,Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, thách thức hệ thống giai cấp, giảngdạy tự do tín ngưỡng, đưa phụ nữ lên ngang hàng với namgiới, chỉ dạy con đường giải thoát cho dân chúng trên khắpcác nẻo đường. Giáo pháp của Ngài rất đơn giản và đầyý nghĩa cao cả, loại bỏ các điều xấu, làm các điều lành,thanh lọc thân tâm cho trong sạch. Ngài dạy phương pháp diệttrừ vô minh, đường lối tu hành để diệt khổ, xử dụngtrí tuệ một cách tự do và khôn ngoan để có sự hiểu biếtchân chánh. Đức Phật khuyên mọi người nên thực hành mườiđức tính cao cả là từ bi, trí tuệ, xả, hỷ, giới, nghịlực, nhẫn nhục, chân thành, cương quyết, thiện ý và bìnhthản. Đức Phật chưa hề tuyên bố là Thần Thánh. Ngườiluôn công khai nói rằng bất cứ ai cũng có thể trở thànhPhật nếu người ấy biết phát triển khả năng và dứt bỏđược vô minh. Khi giác hạnh đã viên mãn thì Đức Phậtđã 80 tuổi. Đức Phật nhập Niết Bàn tại thành Câu ThiNa, để lại hàng triệu tín đồ trong đó có bà Da Du ĐàLa và La Hầu La, cũng như một kho tàng giáo lý kinh điển quýgiá mà cho đến nay vẫn được xem là khuôn vàng thước ngọc—Thelack of hard facts and information, even the date of the Buddha’s lifeis still in doubt. Indian people believe that the Buddha’s Nirvana tookplace around 100 years before the time of king Asoka. However, most modernscholars agreed that the Buddha’s Birthday was in some time in the secondhalf of the seventh century B.C. and His Nirvana was about 80 years afterHis Birthday. The Buddha is the All-Knowing One. He was born in 623 BCin Northern India, in what is now Nepal, a country situated on the slopeof Himalaya, in the Lumbini Park at Kapilavathu on the Vesak Fullmoon dayof April. Almost 26 centuries ago, the Sakyas were a proud clan of theKhattiyas (the Warrior Caste) living on the foothill of the Himalaya inNorthern Nepal. His royal name was Siddhartha, and his family name wasGautama. He belonged to the illoustrious family of the Okkaka of the Solarrace. King Raja Suddhodana founded a strong kingdom with the capital atKapilavatthu. His wife was Queen Maha Maya, daughter of the Kolya. Beforegiving birth to her child, according to the custom at that time, she askedfor the King’s permission to return to her parents’ home in Devadahafor the childbirth. On the way to her parents’ home, the Queen took arest at Lumbini Park, a wonderful garden where flowers filled the air withsweet odor, while swarms of bees and butterflies were flying around andbirds of all color were singing as if they were getting ready to welcomethe Queen. As she was standing under a flowering sala tree, and catchinghold of a branchin full bloom, she gave birth to a prince who wouldlater become Buddha Gotama. All expressed their delight to the Queen andher noble baby prince. Heaven and Earth rejoiced at the marvels. The memorableday was the Full Moon Day of Vesak (in May) in 623 BC. On the naming ceremony,many learned Brahmins were invited to the palace. A wise hermit named Asitatold the king that two ways would open for the prince: he would eitherbecome a universal ruler or would leave the world and become a Buddha.Asita named the baby Siddhattha, which means “the One whose wish is fulfilled.”At first the King was pleased to hear this, but later he was worried aboutthe statement that the prince would renounce the world and become a homelesshermit. In the palace, however, delight was followed quickly by sorrow,seven days after the childbirth, Queen Maya suddenly died. Her youngersister, Pajapati Gotami, the second Queen, became the prince’s devotedfoster mother, who brought him up with loving care.Althoughgrew up in a luxurious life of a prince with full of glory, he was kindand gentle. He received excellent education in both Vedas and the artsof warfare. A wonderful thinghappened at a ploughing festival inhis childhood. It was an early spiritual experience which, later in hissearch for truth, served as a key to his Enlightenment.Once on aspring ploughing ceremony, the King took the prince to the field and placedhim under the shade of a rose apple tree where he was watched by his nurses.Because the King himself took part in the ploughing, the prince lookedat his father driving a golden plough together with other nobles, but healso saw the oxen dragging their heavy yokesand many farmers sweatingat their work. While the nurses ran away to join the crowd, he was leftalone in the quiet. Though he was young in age, he was old in wisdom. Hethought so deeply over the sight that he forgot everything around and developeda state of meditation to the great surprise of the nurses and his father.The King felt great pride in his son, but all the time he recalled thehermit’s prophecy. Then he surrounded him with all pleasures and amusem*ntsand young playmates, carefully keeping away from him all knowledge of pain,sadness and death. When he was sixteen years old, the King Suddhodana arrangedfor his son’s a marriage with the princess Yasodhara, daughter of KingSoupra-Buddha, who bore him a son named Rahula. Although raised in princelyluxury and glory, surrounded with splendid palaces, His beautiful wifeand well-behaved son, He felt trapped amidst this luxury like a bird ina gold cage, a fish in a silver vase. During a visit to the outskirts ofthe city, outside the four palace portals, He saw the spectacle of humansuffering, an old man with white hair, fallen teeth, blurred eyes, deafears, and bent back, resting on his cane and begging for his food; A sickman lying at the roadside who moaned painfully; a dead man whose body wasswollen and surroundedwith flies and bluebottles; and a holy asceticwith a calm appearance. The four sights made Him realize that life is subjectto all sorts of sufferings. The sight of the holy ascetic who appearedserene gave Him the clue that the first step in His search for Truth was“Renunciation.” Back in his palace, he asked his father to let Himenter monkhood, but was refused. Nevertheless, He decided to renounce theworld not for His own sake or convenience, but for the sake of sufferinghumanity. This unprecedented resolution made Prince Siddartha later becomethe Founder of Buddhism. At the age of twenty-nine, one night He decidedto leave behind His princely life. After his groom Chandala saddled Hiswhite horse, He rode off the riyal palace, toward the dense forest andbecame a wandering monk. First, He studied under the guidance of the leadingmasters of the day sucha Alara Kalama and Uddaka Ramaputta. He learnedall they could teach Him; however, He could not find what He was lookingfor, He joined a group of five mendicants and along with them, He embarkedon a life of austerity and particularly on starvation as the means whichseemed most likely to put an end to birth and death. In His desire forquietude He emaciated His body for six years, and carried out a numberof strict methods of fasting, very hard for ordinary men to endure. Thebulk of His body was greatly reduced by this self-torture. His fat, flesh,and blood had all gone. Only skin and bone remained. One day, worn outHe fell to the ground in a dead faint. A shepherdess who happened to passthere gave Him milk to drink. Slowly, He recovered His body strength. Hiscourage was unbroken, but His boundless intellect led Him to the decisionthat from now on He needed proper food. He would have certainly died hadHe not realized the futility of self-mortification, and decided to practicemoderation instead. Then He went into the Nairanjana river to bathe. Thefive mendicants left Him, because they thought that He had now turned awayfrom the holy life. He then sat down at the foot of the Bodhi tree at Gayaand vowed that He would not move until He had attained the Supreme Enlightenment.After 49 days, at the beginning of the night, He achieved the “Knowledgeof Former Existence,” recollecting the successive series of His formerbirths in the three realms. At midnight, He acquired the “Supreme HeavenlyEye,” perceiving the spirit and the origin of the Creation. Then earlynext morning, He reached the state of “All Knowledge,” realizing theorigin of sufferings and discovering the ways to eliminate them so as tobe liberated from birth-death and reincarnation. He became Anuttara Samyak-Sambodhi,His title was Sakyamuni Buddha. He attained Enlightenment at the age of35, on the eighth day of the twelfth month of the lunar calendar, at thetime of the Morning Star’s rising. After attaining Enlightenment at theage of 35 until his Mahaparinirvana at the age of 80, hespent hislife preaching and teaching. He was certaintly one of the most energeticman who ever lived: forty-nine years he taught and preached day and night,sleeping only about two hours a day. Two months after his Enlightenment,the Buddha gave his first discourse entitled “The Turning of The DharmaWheel” to the five ascetics, the Kodannas, his old companions, at theDeer Park in Benares. In this discourse, the Buddha taught: “Avoidingthe two extremes of indulgence in sense pleasures and self-mortification,the Tathagata has comprehended the Middle Path, which leads to calm, wisdom,enlightenment and Nirvana. This is the Very Noble Eight-fold Path, namely,right view, right thought, right speech, right action, right livelihood,right effort, right mindfulness, and right concentration.” Next he taughtthem the Four Noble Truths: Suffering, the Cause of Suffering, the Ceasingof Suffering and the Path leading to the ceasing of suffering. The VenerableKodanna understood the Dharma and immdediately became a Sotapanna, theother four asked the Buddha to receive them into his Order. It was throughthe second sermon on the “No-self Quality” that all of them attainedArahantship. Later the Buddha taught the Dharma to Yasa, a rich young manin Benares and his 54 companions, who all becam Arahants. With the first60 disciples in the world, the Budha founded his Sangha and he said tothem: “I am free from all fetters, both human and divine, you are alsofree from all fetters. Go forth, Bhiksus, for the welfare of many, forthe happiness of many, out of compassion for the world, for the good andwelfare , and happiness of gods and men. Preach the Dharma, perfect inthe beginning, perfect in the middle, perfect in the end, both in spiritand in letter. Proclaim the holy life in all its fullness and purity.”With these words, he sent them into the world. He himself set out for Uruvela,where he received 30 young nobles into the Order and converted the ThreeBrothers Kassapa, who were soon established in Arahantship by means of“the Discourse On Fire.” Then the Buddha went to Rajagaha, to visitKing Bimbisara. The King, on listening to the Dharma, together with hisattendants, obtained the Fruit of the First Path and formally offered theBuddha his Bamboo Grove where the Buddha and the Sangha took up their residencefor a long time. There, the two chief disciples, Sariputra and Mogallana,were received into the Order. Next, the Buddha went to Kapilavatthu andreceived into the Order his own son, Rahula, and his half-brother Nanda.From his native land, he returned to Rajagaha and converted the rich bankerAnathapindika, who presented him the Jeta Grove. For 45 years, the Buddhatraversed all over India, preaching and making converts to His religion.He founded an order of monks and later another order of nuns. He challengedthe caste system, taught religious freedom and free inquiry, raised thestatus of women up to that of men, and showed the way to liberation toall walks of life. His teaching were very simple but spiritually meaningful,requiring people “to put an end to evil, fulfil all good, and purifybody and mind.” He taught the method of eradicating ignorance and suppressingsufferings. He encouraged people to maintain freedom in the mind to thinkfreely. All people were one in the eyes of the Buddha. He advised His disciplesto practice the ten supreme qualities: compassion, wisdom, renunciation,discipline, will power, forbearance, truthfulness, determination, goodwill,and equanimity. The Buddha never claimed to be a deity or a saint. He alwaysdeclared that everyone could become a Buddha if he develops his qualitiesto perfection and is able to eliminate his ignorance completely throughhis own efforts. At the age of 80, after completing His teaching mission,He entered Nirvana at Kusinara, leaving behind millions of followers, amongthem were His wife Yasodara and His son Rahula, and a lot of pricelessdoctrinal treasures considered even today as precious moral and ethicalmodels.

2)Đức Phật nói: “Ta không phải là vị Phật đầu tiên ởthế gian nầy, và cũng không phải là vị Phật cuối cùng.Khi thời điểm đến sẽ có một vị Phật giác ngộ ra đời,Ngài sẽ soi sáng chân lý như ta đã từng nói với chúng sanh.”Trước khi nhập diệt, Đức Phật đã dặn dò tứ chúng mộtcâu cuối cùng: “Mọi vật trên đời không có gì quý giá.Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có đạo Ta là quý báu. Chỉcó chân lý của Đạo Ta là bất di bất dịch.”—The Buddhasaid: “I am not the first Buddha to come upon this earth, nor shall Ibe the last. In due time, another Buddha will arise, a Holy one, a supremeEnlightened One, an incomparable leader. He will reveal to you the sameEternal Truth which I have taught you.” Before entering Nirvana, theBuddha uttered His last words: “Nothing in this world is precious. Thehuman body will disintegrate. Ony is Dharma precious. Only is Truth everlasting.”

3)Phật là Đấng đã đạt được toàn giácdẫn đếnsự giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi sanh tử. Danh từPhật không phải là danh từ riêng mà là một tên gọi “ĐấngGiác Ngộ” hay “Đấng Tĩnh Thức.” Thái tử Sĩ Đạt Đakhông phải sanh ra để được gọi là Phật. Ngài không sanhra là tự nhiên giác ngộ. Ngài cũng không nhờ ân điển củabất cứ một đấng siêu nhiên nào; tuy nhiên sau nhiều cốgắng liên tục, Ngài đã giác ngộ. Hiển nhiên đối vớiPhật tử, những người tin tưởng vào luân hồi sanh tử,thì Đức Phật không phải đến với cõi Ta Bà nầy lần thứnhất. Như bất cứ chúng sanh nào khác, Ngài đã trải qua nhiềukiếp, đã từng luân hồi trong thế gian như một con vật,một con người, hay một vị thần trong nhiều kiếp tái sanh.Ngài đã chia xẻ số phận chung của tất cả chúng sanh. Sựviên mãn tâm linh của Đức Phật không phải và không thểlà kết quả của chỉ một đời, mà phải được tu luyệnqua nhiều đời nhiều kiếp. Nó phải trải qua một cuộc hànhtrình dài đăng đẳng. Tuy nhiên, sau khi thành Phật, Ngài đãkhẳng định bất cứ chúng sanh nào thành tâm cũng có thểvượt thoát khỏi những vướng mắc để thành Phật. Tấtcả Phật tử nên luôn nhớ rằng Phật không phải là thầnthánh hay siêu nhiên. Ngài cũng không phải là một đấng cứuthế cứu người bằng cách tự mình gánh lấy gánh nặng tộilỗi của chúng sanh. Như chúng ta, Phật cũng sanh ra là mộtcon người. Sự khác biệt giữa Phật và phàm nhân là Phậtđã hoàn toàn giác ngộ, còn phàm nhân vẫn mê mờ tăm tối.Tuy nhiên, Phật tánh vẫn luôn đồng đẳng trong chúng sanhmọi loài. Trong Tam Bảo, Phật là đệ nhất bảo, pháp làđệ nhị bảo và Tăng là đệ tam bảo—The Buddha is the personwho has achieve the enlightenment that leads to release from the cycleof birth and death and has thereby attained complete liberation—The wordBuddha is not a proper name but a title meaning “Enlightened One” or“Awakened One.” Prince Siddhartha was not born to be called Buddha.He was not born enlightened, nor did he receive the grace of any supernaturalbeing; however, efforts after efforts, he became enlightened. It is obviousto Buddhists who believe in re-incarnation, that the Buddha did not comeinto the world for the first time. Like everyone else, he had undergonemany births and deaths, had experienced the world as an animal, as a man,and as a god. During many rebirths, he would have shared the common fateof all that lives. A spiritual perfection like that of a Buddha cannotbe the result of just one life. It must mature slowly throughout many agesand aeons. However, after His Enlightenment, the Buddha confirmed thatany beings who sincerely try can also be freed from all clingings and becomeenlightened as the Buddha. All Buddhists should be aware that the Buddhawas not a god or any kind of supernatural being (supreme deity), nor washe a savior or creator who rescues sentient beings by taking upon himselfthe burden of their sins. Like us, he was born a man. The difference betweenthe Buddha and an ordinary man is simply that the former has awakened tohis Buddha nature while the latter is still deluded about it. However,the Buddha nature is equally present in all beings.

(E)Bốn Cảnh làm thay đổi cuộc đời Đức Phật
Foursights which changed the Buddha’s life

(I)Tổng quan về “Tứ Cảnh”—An overview of “Four sights”:Thái tử Tất Đạt Đa cùng với người đánh xe của Ngàiphiêu lưu ra ngoài bức tường của cung điện bốn lần, vàbốn hình ảnh mà Ngài đã chạm trán đã dẫn đến sự kiệnNgài từ bỏ thế gian, một trong những bước ngoặc lớn laotrong đời của Ngài. Trong lần đầu tiên đi ra ngoài, tháitử gặp một người gầy yếu chống gậy. Xa Nặc giải thíchrằng đây là tuổi già và cũng là số phận của tất cảmọi chúng sanh, kể cả thái tử. Khi vua cha nghe được chuyệnnày, ngài cho tăng gấp đôisố người canh giữ con traimình và tăng thêm số người làm trò vui cho thái tử. Tronglần đi ra ngoài thành lần thứ hai, thái tử tình cờ gặpmột người đau đớn vì bệnh tật. Một lần nữa Xa Nặcbáo cho thái tử biết rằng điều bất hạnh này có thể đếnvới tất cả chúng sanh, kể luôn cả thái tử. Lần đi rangoài thành thứ ba, thái tử trông thấy một xác chết, vàsau đó Xa Nặc thảo luận với Ngài về bản chất và ý nghĩacủa cái chết. Nơi cung điện thái tử cảm thấy buồn nảnmà không có một sự giải trí nào có thể làm cho Ngài phấnchấn lên được: ngài giống như “một con sư tử bị đâmthủng nơi tim bởi một mũi tên độc.” Ngài không thể hiểuđược làm thế nào mà người ta có thể an vui với bản thânhoặc cười đùa thỏa thích khi lão, bệnh, tử vẫn còn tồntại trong thế gian này. Những năm sau đó Ngài thường dạyrằng sự đau như thế vẫn luôn luôn hiện diện và đưa ramột giải pháp cho sự kiện đã được khẳng định này.Vào lần đi ra ngoài thành lần cuối cùng, thái tử thấy mộtđạo sĩ mang một chiếc bình bát khất thực, Xa Nặc trìnhbày với thái tử rằng người này đã từ bỏ cuộc sốnggia đình và đã xuất gia sống đời đạo hạnh của mộtnhà tu khổ hạnh đi tìm chân lý và hạnh phúc. Và rồi sauđó thái tử Tất Đạt Đa quyết định thực hành giống nhưvậy—Prince Siddhartha ventured beyond the palace walls four times,accompanied by his charioteer Chandaka, and the four sights that he encounteredled to his renunciation of the world, one of the great turning points inhis life. On his first outing, Siddhartha saw a wasted man supported himselfwith a stick. Chandaka explained that this was old age and that it wasthe fate of all living beings, including the prince. When the heard aboutthe incident, he doubled the number of guards around his son and increasedthe number of his entertainers. On his second outing, the prince came acrossa man afflicted with disease. Again Chandaka informed him that this misfortunecan strike all living beings, including the prince. On his third outing,the prince saw a corpse, and Chandaka then discussed with him the natureand meaning of death. At the palace Siddhartha became broody. No amountof entertainment could cheer him up: he was like “a lion pierced in theheart by a poisoned arrow.” He could not understand how people couldbe at peace with themselves or indulge in laughter when old age, illnessand death existed in the world. Years later he would teach that such sufferingis always present, and would offer a solution to this predicament. On hisfinal outing, Siddhartha saw a monk carrying a begging bowl. Chandaka toldhim that this man had abandoned the house-hold life and had ‘gone forth’to lead the holy life of an ascetic in search of truth and happiness. Thereand then Siddhartha resolved to do the same.

(II)Four sights and the prediction of some famous fortune-tellers at the Buddha’sbirth—Tứ cảnh và lời tiên đoán của vài nhà tiêntri nổi tiếng thời Đức Phật đản sanh: Theo truyền thuyếtvề cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ít lâu sau khi Ngàiđản sanh, một nhà tiên tri đã tiên đoán rằng Ngài sẽ thànhmột vị đại vương nếu Ngài không chứng kiến bốn cảnh:1) người bệnh; 2) người già; 3) một thây ma; 4) một ngườixuất gia. Ba cảnh đầu tượng trưng cho hiện thực cay nghiệtcủa vòng luân hồi sanh tử, trong đó chúng sanh bệnh hoạn,già yếu và chết chóc, và cảnh tượng thứ tư chỉ ra conđường thoát khỏi hiện thực này, bằng cách từ bỏ thếgiới trần tục để tìm đường giải thoát. Theo truyện kểcủa truyền thống, cha Ngài là vua Tịnh Phạn đã cố gắnghết sức mình để ngăn ngừa không cho Ngài thấy những cảnhnày, nhưng không thành công. Vị Thái tử trẻ đã đi ra ngoạithành Ca Tỳ La Vệ 4 lần, và mỗi lần Ngài đều chứng kiếnmột trong bốn cảnh tượng. Sau đó Ngài quyết định rờibỏ cung điện của vua cha và trở thành người từ bỏ thếgian—According to legends about Sakyamuni Buddha’s life, shortly afterhis birth a fortune-teller predicted that he would become a great kingunless he encountered the “four sights”: 1) a sick person; 2) an oldperson; 3) a corpse; and 4) a world renouncer. The first three symbolizethe harsh realities of cyclic existence, in which beings become sick, growold, and die, and the fourth indicates the way to escape this, by renouncingthe world and seeking liberation. According to tradition accounts, hisfather Suddhodana tried very hard to prevent him from encountering thesesights, but was unsuccessful. The young prince went out into the town ofKapilavastu on four occasions, and during each of these he was confrontedby one of the four sights. He subsequently resolved to leave his father’spalace and become a world renouncer.

(III)Lýdo tại sao chúng ta gọi bốn cảnh tượng này là bốn cảnhtượng có ý nghĩa—The reason we call these four visionsfour significant visions: Lý do tại sao chúng ta gọi bốn cảnhtượng này là bốn cảnh tượng có ý nghĩa bởi vìchínhbốn điểm này đã làm thay đổi cả cuộc đời của Tháitử Tất Đạt Đa (người sau này trở thành Đức Phật). KhiThái tử lớn lên, điều mơ ước mạnh mẻ và khẩn thiếtcủa vua Tịnh Phạn là con mình lập gia đình, chăm sóc giađình, và là người kế vị xứng đáng của mình, bởi vìlời tiên tri của nhà thông thái Kondanna luôn ám ảnh nhà vua,nên nhà vua luôn lo sợ một ngày nào đó Thái tử sẽ bỏnhà ra đi, sống đời ẩn sĩ không cửa không nhà. Theo tậptục Ấn Độ thời bấy giờ, Thái tử kết duyên rất sớmvào năm lên 16 với người em bà con, một công chúa xinh đẹp,con vua Hộc Phạn và bà hoàng hậu Pamita của xứ Koliya. Côngchúa cùng tuổi với Thái tử.Vua Tịnh Phạn đã cungứng đầy đủ những phương tiện sang trọng nhất cho Tháitử. Ngài có ba cung điện để sống thích hợp với ba mùatheo thời tiết của Ấn Độ. Không gì trên đời để hưởngthụ những lạc thú trần gian, Thái tử sống giữa cảnh đànca múa hát, trong xa hoa hỷ lạc lộng lẫy, không biết gì đếnkhổ đau sầu muộn. Tuy nhiên, tất cả những cố gắng củavua Tịnh Phạn nhằm giam hãm con mình trong nhục dục trầnthế và tạo cho con mình một tâm hồn trần tục đã khôngđem lại kết quả.Những công trình của vua cha TịnhPhạnnhằm tách rời cặp mắt tìm tòi của con mình rakhỏi những trạng huống khốn khổ phiền lụy trong đờisống, chỉ làm cho tánh tò mò và ý chí quyết tìm chân lývà thành đạt giác ngộ của Thái tửngày càng lớnthêm. Với tuổi lớn khôn và thành thục, Thái tử bắt đầuthoáng thấy được nỗi thống khổ của thế gian. Một hômkhi Thái tử đang ngồi trên xe ngựa do người đánh xe Xa Nặcchở vào vườn Thượng Uyển, thì Ngài ngạc nhiên trông thấymột cảnh tượng não nề mà Ngài chưa từng thấy bao giờ:một cụ già già yếu đang ở vào giai đoạn cuối của cuộcsống, đang rên rỉ khóc than: “Ngài ơi! Hãy giúp tôi! Giúptôi đứng vững trên đôi chân; Ôi, hãy giúp tôi! Nếu khôngtôi sẽ chết trước khi về đến nhà!” Đây là cảnh kíchđộng mạnh mẽ đầu tiên của Thái tử. Lần thứ nhì, khiNgài thấy một người ốm yếu chỉ còn da bọc xương, vôcùng khổ sở và buồn thảm, đang chịu đựng một cơn bệnhnặng, đang chịu đựng một cơn bệnh trầm trọng. Sức lựckhông còn, tất cả những hy vọng và niềm vui sống của ngườiấy cũng không còn. Lần thứ ba Ngài thấy một nhóm ngườithan khóc rên rỉ thê thảm, khiêng trên vai thi hài của thânnhân để đi hỏa táng. Cảnh tượng bất hạnh mà lần đầutiên Ngài thấy trong đờiđã làm cho Ngài vô cùng kíchđộng. Và Ngài được người đánh xe Xa Nặc cho biết rồiđây chính Ngài, Công chúa Da Du Đà La, và tất cả thân quyếnlớn nhỏ, không trừ bỏ một ai, đều phải trải qua nhữnggiai đoạn già, bệnh và chết này. Ít lâu sau, Thái tử trôngthấy một tu sĩ khoan thai đi từng bước, mắt nhìn xuống,ung dung và vắng lặng, thanh thoát tự tại. tác phong trầmtĩnh của con người từ tốn ấy đập mạnh vào tâm tư Ngài.Ngài được Xa Nặc cho biết rằng đó là một tu sĩ đã lìabỏ nhà cửa để sống đời trong sạch, tìm chân lý giảiđáp cho những phiền toái của đời sống. Ý niệm xuất giabỗng chốc thoáng qua trong trí Ngài và Ngài trầm tư mặc tưởngtrên đường về nhà. Nhịp tim thống khổ của nhân loạiđã tìm được một âm vang cứu chữa trong tâm Ngài. Càngđụng chạm với cuộc sống bên ngoài Ngài càng có xác tínlà thế gian này quả thật không có hạnh phúc thật sự. Nhưngtrước khi về đến hoàng cung thì một người đến báo tinlà công chúa Da Du Đà La đang lâm bồn và hạ sanh một hoàngnam. “Lại thêm một trói buộc cho ta,” Ngài thốt ra lờithan và trở về—The reason we call these four visions four significantvisions because these four visions changed the whole life of Prince Siddhartha(who became Buddha later). When the Prince grew up, King Suddhodana’sstrong and fervent wish was that his should get married, bring up a family,and be his worthy successor, for the prediction of the Sage Kondanna alwayshaunted him, and he feared that one day the Prince would give up home forthe homeless life of an escetic. According to the custom of Indian at thattime, at the very early age of sixteen, the Prince was married to his cousin,the beautiful Princess Yasodhara, the only daughter of King Suppabudhaand Queen Pamita of the Koliyas. The Princess was of the same age as thePrince. King Suddhodana provided the Prince with the greatest comforts.The Prince had, so the story tells, three palaces, one of each for theIndian yea’s three seasons. Lacking nothing of the early joys of life,he lived amid song and dance, in luxury and pleasure, and knowing nothingof sorrow. Yet all the efforts of King Suddhodana to try to hold the Princea prisoner to the senses and made him worldly-minded were of no avail.King Suddhodana’s endeavors to keep away life’s miseries from his son’sinquiring eyes only heightened Prince Siddhartha’s curiosity and hisresolute search for truth and Enlightenment. With the advance of age andmaturity, the Prince began to glimpse the woes of the world. On one occasion,when the Prince went driving with his charioteer Canna to the Royal Garden,he saw to his amazement what his eyes had never beheld before: a man weakenedwith age, and in the last stage of aging, crying out in a mournful voice:“Help master! Lift me to my feet; ho, help! Or I shall die before I reachmy house!” This was the first shock the Prince received. The second wasthe sight of a weak man, mere skin and bones, supremely unhappy, forlorn(hopeless), suffered, and depressed. He was suffering a serious illness.The strength was gone, and all the grace and joy of life was also gone.On a third occasion He saw a group of lamenting kinsmen bearing on theirshoulders the corpse of their beloved one for cremation. These woeful signs,seen for the first time in his life, deeply moved him. From the charioteerhe learned that even he, his beloved Princess Yasodara, and all his relatives,without exception, are subject to old age, illness and death. Soon afterthis the Prince saw a recluse moving with slow and imposing (majestic)steps, down-cast eyes, calm and serene, aloof (away from the world) andindependent. He was struck by the serene countenance of the man. He learnedform Channa that this recluse was one who had abandoned his home to livea life or purity, to seek truth and answer the troubles of life. Thoughtsof renunciation flashed through the Prince’s mind and in deep contemplationon the way home, the heart throb of suffering human beings found a responsiveecho in his mind. The more he came in contact with the world outside ofhis palace, the more he was convinced that the world was lacking in truehappiness. But before reaching the palace he was informed by a messengerthat a son had been born to Yosadara. “A fetter is set upon me,” heuttered and returned to the palace.

(F)Sáu năm khổ hạnh của Đức Phật
SixYears of Ascetic praticing of the Buddha

Saukhi rời bỏ cung vua, Thái tử Sĩ Đạt Đa đi vào rừng khổhạnh. Có rất nhiều đạo sĩ đang thực hành khổ hạnh tạiđó. Thái tử đến xin chỉ giáo một một vị trưởng lão:“Làm sao mới được giác ngộ và giải thoát?” Vị trưởnglão đáp: “Chúng tôi siêng năng tu hành khổ hạnh, chỉ mongsau khi chết được lên Thiên giới hưởng lạc, chứ khôngbiết cái gì gọi là giác ngộ hay giải thoát cả.” Vị trưởnglão tiếp theo: “Phương pháp hành xác của chúng tôi là đóithì ăn rễ cỏ, vỏ cây, hoa quả. Có lúc chúng tôi dội nướclạnh lên đầu suốt ngày. Có lúc thì chúng tôi ngủ cạnhlửa nóng cho cơ thể bị nóng đỏ. Có lúc thì chúng tôi treongược trên những cành cây. Chúng tôi thực hành khổ hạnhbằng nhiều cách khác nhau và mục đích là để thờ mặttrời, mặt trăng, các vì sao, hay nước chảy và lửa hồng.Sau khi nghe những lời giải thích của vị trưởng lão, vịThái tử vốn thông minh biết ngay là những người này chảbiết gì đến vấn đề sanh tử, họ đã không thể tự cứumình nói chi đến cứu độ những chúng sanh khác. Sau đó TháiTử Tất Đạt Đa đến gặp ngài A La La, rồi ngài Uất ĐầuLam Phất. Trong thời gian ngắn, Thái Tử đều thông hiểu hếttất cả những điều mà các đạo sư nầy đã chỉ dạy.Nhưng Ngài vẫn chưa thỏa mãn, và tự nhủ: “Các vị Thầycủa Ta mặc dầu là những đaọ sư thánh thiện, nhưng nhữnglời chỉ giáo của họ vẫn chưa giúp con người chấm dứtkhổ đau. Nên Ta phải tự mình cố gắng tìm ra chân lý.”Thế là Thái tử quyết định rời bỏ khổ hạnh lâm đểhướng về vùng tu của các ẩn sĩ. Ngài lên núi Gaya đểtự mình khổ tu và tham thiền nhập định. Sự khổ hạnhcủa Thái tử rất đơn giản, mỗi ngày Ngài chỉ ăn mộtchút lúa mì và lúa mạch trong khi chuyên tâm tu trì nên cơthể của Ngài ngày càng yếu dần. Thân thể của ngài mấtđi vẻ đẹp trong sáng, bao phủ đầy bụi đất dơ dáy. Nhìnngài chẳng khác gì một bộ xương đang sống. Nhưng ngài vẫnkiên trì không chịu từ bỏ sự khổ hạnh. Sau sáu năm tuhành khổ hạnh trong rừng, nhưng Ngài vẫn không đạt đượctận cùng ý nguyện. Ngài thấy khổ hạnh hành xác là mộtsự sai lầm trong việc tự hủy hoại thân thể của chínhmình. Cuối cùng Thái tử nghĩ rằng việc lớn giác ngộ vàgiải thoát không thể bằng tu hành khổ hạnh mà được. Đểtìm ra chân lý, ngài phải theo con đường trung đạo nằm giữacuộc sống quá dục lạc và quá khổ hạnh—After Prince Siddharthaleft the royal palace, he wandered in the forest of ascetics. There weremany practicing ascetics. The Prince consulted one of the elders: “Howcan I attain true enlightenment and emanicipation?” The elder replied:“We practice asceticism diligently, hoping that upon our death we couldbe reborn in the heavens to enjoy happiness. We don’t know anything aboutenlightenment and emancipation.” The elder added: “The way we taketo the asceticism is that when we are hungry, we eat grassroots, bark,flowers, and fruits. Sometimes we pour cold water on our heads all daylong. Sometimes we sleep by a fire, allowing the body to be baked and tanned.Sometimes we hang ourselves upside down on tree branches. We practice indifferent ways, the purpose of whichis to worship the sun, moon,stars, the running water and the blazing fire.” After listening to theexplanations of this elder, the wise Prince knew that they had practicallyno knowledge of the problems of life and death and they could not evenredeem themselves, not to mention saving other sentient beings. The asceticswere merely inflicting sufferings upon themselves. Then Prince Siddharthacame to study with Masters Arada and Udraka. In a short time he masteredeverything they had to teach him. But still he was not satisfied. “Myteachers are holy people, but what they taught me does not bring an andto all suffering. I must continue to search for the Truth on my own.”So the Prince decided to relinquish this kind of ascetic life, left theforest and headed towards other places where the hermits were. He cameto Gaya Hill to practice asceticism and meditation. The life which thePrince led was very simple. He just ate a little wheat and barley everydaywhile devoting all his energy to his practice. So his body became thinnerby the day. His body lost its radiance and became covered with dust anddirt. Eventually he looked like a living skeleton. But he still refusedto give up his practices. After six years of ascetic practice, the Princecould not reach his goal. He realized that it was a mistake to punish hisbody like that. Finally he realized that the major issue of enlightenmentand emancipation could never be achieved through ascetic practicing alone.To find the Truth, he must follow a middle path between too much pleasureand too much pain.

(G)Đức Phật là Đấng thứ nhất trong Tam Bảo
SakyamuniBuddha is the first person of the Trinity

ĐứcPhật là Đấng thứ nhất trong Tam Bảo, thứ nhì là Pháp Bảo,và thứ ba là Tăng Bảo. Có bốn loại Phật—The Sakyamuni Buddhais the first person of the Trinity, the Dharma second and the Order thethird. There are four types of the Buddha:
1)Tam Tạng Phật, đấng đạt được giác ngộ dưới cội Bồđề: The Buddha of the Tripitaka who attained enlightenment on the bareground under the bodhi-tree.
2)Thông Phật: The Buddha on the deva robe under the bodhi-tree.
3)Biệt Phật: The Buddha on the great precious Lotus throne under therealm bodhi-tree.
4)Viên Phật: The Buddha on the throne of Space in the realm of eternalrest and glory.

(H)Khái niệm về Đức Phật
trongPhật giáo Nguyên Thủy
TheBuddha concept in Theravada Buddhism
SeeChapters 123 and 156

(I)Đức Phật theo quan điểm
củaTruyền Thống Thiền
TheBuddha in the point of view of Zen Tradition

Theocác tông phái Thiền thì Phật tử chấp nhận rằng vị Phậtlịch sử ấy không phải là vị thần tối thượng, cũng khôngphải là đấng cứu thế cứu người bằng cách tự mình gánhlấy tội lỗi của loài người. Người Phật tử chỉ tônkính Đức Phật như một con người toàn giác toàn hảo đãđạt được sự giải thoát thân tâm quanhững nỗ lựccủa con người và không qua ân điển của bất cứ một đấngsiêu nhiên nào. Theo Phật giáo, ai trong chúng ta cũng là mộtvị Phật, nghĩa là mỗi người chúng ta đều có khả nănglàm Phật; tuy nhiên, muốn thành Phật, chúng ta phải đi theocon đường gian truân đến giác ngộ. Trong các kinh điển,chúng ta thấy có nhiều sự xếp loại khác nhau về các giaiđoạn Phật quả. Một vị Phật ở giai đoạn cao nhất khôngnhững là một người giác ngộ viên mãn mà còn là một ngườihoàn toàn, một người đã trở thành toàn thể, bản thântự đầy đủ, nghĩa là một người trong ấy tất cả cáckhả năng tâm linh và tâm thần đã đến mức hoàn hảo, đếnmột giai đoạn hài hòa hoàn toàn và tâm thức bao hàm cảvũ trụ vô biên. Một người như thế không thể nào đồngnhất được nữa với những giới hạn của nhân cách vàcá tính và sự hiện hữu của người ấy. Không có gì cóthể đo lường được, không có lời nào có thể miêu tảđược con người ấy—According to the Zen sects, Buddhists acceptthe historic Sakyamuni Buddha neither as a Supreme Deity nor as a saviorwho rescues men by taking upon himself the burden of their sins. Rather,it verenates him as a fully awakened, fully perfected human being who attainedliberation of body and mind through his own human efforts and not by thegrace of any supernatural being. According to Buddhism, we are all Buddhasfrom the very beginning, that means everyone of us is potentially a Buddha;however, to become a Buddha, one must follow the arduous road to enlightenment.Various classifications of the stages of Buddhahood are to be found inthe sutras. A Buddha in the highest stage is not only fully enlightenedbut a Perfect One, one who has become whole, complete in himself, thatis, one in whom all spiritual and psychic faculties have come to perfection,to maturity, to a stage of perfect harmony, and whose consciousness encompassesthe infinity of the universe. Such a one can no longer be identified withthe limitations of his individual personality, his individual characterand existence; there is nothing by which he could be measured, there areno words to describe him.

(J)Các tên khác của một vị Phật
Othernames (appellations) of a Buddha

1-10)See Thập Hiệu in Chapter 57 (O).
11)Đấng Tự Hữu:Svayambhuva (skt)—Self-existing One.
12)Vị Lãnh Đạo: Nayaka (skt)—The Leader.
13)Bậc Thắng Đạo: Vinayaka (skt)—The Remover-of-obstacles.
14)Bậc Dẫn Đạo: Parinayaka (skt)—The Guiding One.
15)Bậc Thấu Thị: Rishi (skt)—The Buddha.
16)Ngưu Vương: Vrishabha (skt)—Bull-king.
17)Đấng Phạm Thiên: Brahma (skt)—Brahma.
18)Bậc Tỳ Nữu: Vishnu (skt)—Vishnu.
19)Đấng Tự Tại: Isvara (skt)—Isvara.
20)Vị Ca Tỳ La: Kapila (skt)—Kapila.
21)Bậc Chấp Thực: Bhutanta (skt)—The Destroyer.
22)Đấng Vô Tận: Arishta (skt)—The Imperishable.
23)Đấng A Lợi Trạch Tra Ni Di: Nemina (skt)—Nemina.
24)Đấng Tô Ma: Soma (skt)—Soma.
25)Hỏa Thần: Fire.
26)Đấng La Ma: Rama (skt)—Rama.
27)Đấng Tỳ Da Bà: Vyasa (skt)—Vyasa.
28)Đấng Luân Già: Suka (skt)—Suka.
29)Đế Thích: Indra (skt)—Indra.
30)Bậc Đại Lực: TheStrong One.
31)Thủy Thần: Varuna (skt)—Varuna.
32)Bất Sinh Bất Diệt: Anirodhanutpada (skt)—Immortality.
33)Không: Emptiness.
34)Như Như: Suchness.
35)Chân Lý: Sutyata (skt)—Truth.
36)Thực Hữu: Bhutata (skt)—Reality.
37)Thực Tế: Bhutakoti (skt)—Real Limit.
38)Pháp Giới: Dharmadhatu (skt)—Dharmadhatu.
39)Niết Bàn: Nirvana (skt)-Nirvana.
40)Thường Hằng: Nitya (skt)—Eternity.
41)Bình Đẳng: Samata (skt)—Sameness.
42)Bất Nhị: Advaya (skt)—Non-duality.
43)Bất Diệt: Anirodha (skt)—The Imperishable.
44)Vô Tướng: Abimitta (skt)—Formless.
45)Duyên: Pratyaya (skt)—Causality.
46)Phật Tính Giáo Đạo: Buddha-hetupadesa (skt)—Teaching the Causeof Buddhahood.
47)Giải Thoát: Vimoksha (skt)—Emancipation.
48)Đạo Đế: Margasatyam (skt)—Truth-paths.
49)Nhất Thiết Trí: Sarvajna (skt)—The All-knowing.
50)Thắng Giả: Jina (skt)—The Conquering One.
51)Ý Sinh Thân: Manomayakaya (skt)—The Will-body.

(K)Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn
Inthe heavens above and earth beneath
Ialone am the honoured one

“Trêntrời dưới trời, riêng ta cao nhất. Trên trời dưới trờiriêng ta tôn quý nhất.” Đó là lời Đức Phật lúc Ngàimới giáng sanh từ bên sườn phải Hoàng Hậu Ma Da và bướcbảy bước đầu tiên. Đây không phải là một câu nói caongạo mà là câu nói để chứng tỏ rồi đây Ngài sẽ hiểuđược sự đồng nhứt của bản tánh thật của toàn vũ trụ,chứ không phải là bản ngã theo thế tục. Lời tuyên bốnầy cũng là thường pháp của chư Phật ba đời. Đối vớiĐại Thừa, Ngài là tiêu biểu cho vô lượng chư Phật trongvô lượng kiếp—The first words attributed to Sakyamuni after hisfirst seven steps when born from his mother’s right side: “In the heavensabove and earth beneath I alone am the honoured one.” This is not anarrogant speaking, it bears witness to an awareness of the identity ofI, the one’s own true nature or Buddha-nature with the true nature ofthe universe, not the earthly ego. This announcement is ascribed to everyBuddha, as are also the same special characteristics attributed to everyBuddha, hence he is the Tathagata come in the manner of all Buddhas. InMahayanism he is the type of countless other Buddhas in countless realmsand periods.

(L)Tám Thời Kỳ Trong Cuộc Đời Đức Phật
Eightaspects of Buddha’s life

BátTướng Thành Đạo—Eight periods of Buddha’s life.

1)Đâu Suất lai nghinh tướng: Descending from the Tush*ta Heaven Palace—Descendinto and abode in the Tusita heaven—Xuống từ cung trời Đâu Suất.
2)Tại đây thuyết pháp cho chư thiên: Abode there visibly preachingto the devas.
3)Nhập thai nơi Hoàng Hậu Ma Da: Entry into his mother’s womb (QueenMaha Maya).
4)Phong Tỳ Ni viên giáng sanh tướng: Birth from his mother’s sidein Limbini—Giáng sanh tại vườn Lâm Tì Ni.
5)Du thành xuất gia tướng—Leaving the home life: Xuất gia tu hànhnăm 29 tuổi—Leaving home at the age of 29 as a hermit.
6)Thành đạo sau 6 năm khổ hạnh: Subduing mara and accomplishingthe Way—After six years suffering, subduing mara and attaining enlightenment—Bồđề thọ hạ hàng ma Thành đạo tướng.
7)Lộc Dã Uyển chuyển Pháp luân tướng—Turning the Dharma wheel:Rolling the Law-wheel or preaching—Chuyển Pháp Luân và Thuyếtpháp.
8)Nhập diệt năm 80 tuổi: Entering nirvana (Parinirvana) at the ageof 80.

(M)Sự im lặng của Đức Phật
Silenceof the Buddha

(I)Tổng quan về “Im lặng cao quý”—An overview of “Noblesilence: Đức Phật từ chối mọi sự trả lời về nhiềuvấn đề siêu hình. Ngài đã im lặng khi các môn đồ hỏiNgài xem cái Ngã có tồn tại, xem những người Đại giáccó tồn tại sau khi chết bằng cách nầy hay cách khác, xemthế giới có phải là vĩnh hằng và vô tận hay không, vânvân. Để biện minh cho sự im lặng của mình đối với nhữngcâu hỏi nầy, Đức Phật nói rằng những lời giải thíchcủa Ngài sẽ không giúp ích gì cho ai trên con đường giảithoát, vì chúng không giúp ta chiến thắng đam mê dục vọngđể đạt tới trí năng toàn hảo, mà ngược lại chúng chỉlàm cho ta càng xa rời con đường giải thoát mà thôi. Chínhvì vậy mà Ngài chỉ nói khi cần thiết. Đức Phật khôngtrả lời những câu hỏi về tự tồn, không tự tồn, thếgiới vĩnh cửu, vân vân. Theo Đức Phật, người giữ im lặnglà người khôn ngoan vì tránh được hao hơi tổn tướng cũngnhư những lời nói tiêu cực vô bổ—Buddha Sakyamuni refrainedfrom giving a definitive answer to many metaphysical questions of his time.This is often referred to as the silence of the Buddha. He always remainedsilent when the students asked him if the self exists or not, if an enlightenedone continues to exist after his death, if the world is eternal and unendingor not. The Buddha explained that he was silent on these questions becauseanswers to them would in no way further progress on the path; these answerswould not contributeto overcoming of the passions nor to the attainmentof wisdom. Thus the Buddha speaks only when necessary: Buddha Sakyamunirefrained from giving a definitive answer to many metaphysical questionsof his time (questions of self-exists, not self-exists, if the world iseternal, or unending or no, etc). According to the Buddha, a silent personis very often a wise person because he or she avoids wasting energy ornegative verbiage.

(II)Phản ứng của Đức Phật trước những câu hỏi không ănnhập gì đến tu tập—The Buddha’s reactions toward irrelevantquestions: Một hôm có người nói với Phật y sẽ nhập bọncác đệ tử của Ngài nếu Ngài đưa ra được những giảiđáp sáng tỏ về các vấn đề như Phật sống mãi hay không,nếu thế thì cái gì sẽ xãy ra sau khi Ngài chết? Nguyên nhânđầu tiên của vũ trụ là gì và vũ trụ rồi sẽ giống nhưcái gì trong tương lai? Tại sao loài người sống và cái gìxãy ra sau khi chúng ta chết? Vân vân và vân vân. Nếu ngườiấy hỏi để vấn nan Phật thì Ngài chỉ im lặng. Ví bằngNgài thấy rằng người ấy hỏi để học thì Ngài sẽ trảlời như thế nầy: “Giả sử bạn bị trúng một mũi têntẩm thuốc độc, có một y sĩ đến để nhổ mũi tên ấyra khỏi thân thể của bạn và trị vết thương cho lành, trướctiên bạn có hỏi ông ta những vấn đềnhư mũi tênđược làm bằng thứ gì, thuốc độc được chế bằng thứgì, ai bắn mũi tên đó, và nếu y sĩ không trị vết thương,cái gì sẽ phải xãy ra, vân vân và vân vân; và từ chốichữa trị trừ phi y sĩ trả lời tất cả những vấn đềđó để thỏa mãn bạn? Bạn sẽ chết trước khi nhận đượcnhững giải đáp.” Trong thí dụ nầy, Phật khuyến cáo cácngười hỏi nếu là đệ tử của Ngài thì đừng nên phímất thời gian về những vấn đề quá sâu xa ngoài tầm lãnhhội của một người thường, có thể sau thời gian dài tutập theo nhà Phật thì tự nhiên sẽ thấu hiểu—One day acertain man said to the Buddha that he would join the band of his disciplesif the Buddha would give clear answer to the questions: Would the Buddhaever die, and, if so, what would become of him after death? What was thefirst cause of the universe, and what was the universe going to be likein the future? Why do men live and what becomes of them after death? Ifthe person asks because he wants to cause troubles for the Buddha, theBuddha will remain silent. If the person asks because he wants tostudy, the Buddha’s answer was to the following effect: “Suppose youwere shot by a poison arrow and a physician came to draw the arrow fromyour body and to dress the wound, would you first ask him questions asto what the arrow was made of, what the composition of the poison was,and who shot the arrow, and, if the physician did not dress the wound,what was going to happen, and such blissful questions, and refuse the treatmentuntil the physician answered all the questions to your satisfaction? Youwould be dead before you obtained the answers.” In this parable the Buddhaadvised the questioner to become his disciple without wasting his timeon problems which were too profound to be understood by an ordinary man,probably a long cultivation as a disciple of the Buddha he might come tounderstand.

(III)SựIm Lặng của Đức Phật theo Triết Học Trung Quán—TheBuddha’s silence according to the Madhyamaka Philosophy: Theo TriếtHọc Trung Quán, sự im lặng bí ẩn của Đức Phật đối vớinhững câu hỏi có tính cách siêu hình căn bản nhất đã thúcđẩy Bồ Tát Long Thọ nghiên cứu tìm hiểu lý do tại saoĐức Phật lại giữ im lặng. Có phải Đức Phật chủ trương“Bất khả tri” như một số người Tây phương nghiên cứuPhật Giáo đã nghĩ? Nếu không thì vì lý do gì mà Ngài giữthái độ im lặng? Qua một cuộc nghiên cứu đối với sựim lặng nầy, Long Thọ đã đặt ra biện chứng pháp. Có mộtsố câu hỏi trứ danh mà Đức Phật cho là “Vô ký,” tứclà những giải đáp mà Ngài cho rằng không thể diễn đạt.Trong những chú giải của Nguyệt Xứng về Trung Luận, Ngàiđã từng nói về chuyện Đức Thế Tôn đã tuyên bố vềmười bốn sự việc không thể thuyết minh được như sau—Accordingto the Madhyamaka Philosophy, the mysterious silence of the Buddha on mostfundamental questions of Metaphysics led him to probe into the reason ofthat silence. Was the Buddha agnostic as some of the European writers onBuddhism believe him to be? If not, what was the reason of his silence?Through a searching inquiry into this silence was the dialectic born. Thereare well-known questions which the Buddha declared to be avyakrta or theanswers to which were inexpressible, Cadrakirti enumerates them in hiscommentary on the Madhyamaka Sastra that the Buddha announced fourteenthings to be inexpressible:

1)Thế giới phải chăng là...: Whether the world is…
a)Vĩnh hằng: Eternal.
b)Không vĩnh hằng: Not eternal.
c)Hoăc vừa vĩnh hằng vừa không vĩnh hằng: Both eternal and noteternal.
d)Hoặc chẳng phải vĩnh hằng mà cũng chẳng phải không vĩnhhằng: Neither eternal nor not eternal.

2)Phải chăng thế giới là...: Whether the world is…
a)Hữu biên: Finite.
b)Vô biên: Infinite.
c)Hoặc vừa hữu biên vừa vô biên: Both finite and infinite.
d)Hoặc chẳng phải hữu biên mà cũng chẳng phải vô biên: Neitherfinite nor infinite.

3)Phải chăng sau khi Như Lai nhập diệt...: Whether the Tathagata…
a)Ngài vẫn tồn tại: Exists after death.
b)Ngài không còn tồn tại: Does not exist after death.
c)Hoặc Ngài vừa tồn tại vừa không tồn tại: Either existsor does not exist after death.
d)Hoặc Ngài chẳng tồn tại mà cũng chẳng không tồn tại:Neither exists nor does not exist after death.

4)Phải chăng linh hồn và thể xác: Whether the soul is...
a)Đồng nhất: Identical with the body.
b)Không đồng nhất: Different with the body.

(IV)SựIm Lặng của Đức Phật theo Theo Kinh Trung Bộ II, kinh TiểuMalunkyaputta—The Buddha’s silence according to the MajjhimaNikaya II, Cula Malunkyaputta Sutta: Theo Kinh Trung Bộ II, kinh TiểuMalunkyaputta, Đức Phật nhắc nhở tôn giả Malunkyaputta: “NàyMalunkyaputta! Có các vấn đề không được Như Lai giải thích,bị Như Lai bỏ sang một bên, hay không được Như Lai quan tâmtới; đó là: ‘Thế giới thường hằng, hay vô thường? Vũtrụ hữu biên hay vô biên? Sinh mạng và thân là một hay sinhmạng và thân là khác? Như Lai tồn tại sau khi chết hay NhưLai không tồn tại sau khi chết? Như Lai vừa tồn tại, vừakhông tồn tại sau khi chết? Như Lai không tồn tại cũng khôngkhông tồn tại sau khi chết?’ Giải thích những vần đềnày chỉ tốn thời gian vô ích.”—According to Majjhima NikayaII, Cula Malunkyaputta Sutta, the Buddha reminded Malunkyaputta: “Malunkyaputta,there are problems unexplained, put aside and ignored by the Tathagata;namely: ‘The world is eternal, or it’s not eternal. The universe isfinite, or it is infinite. Life is the same as body, or life is one thingand body another. The Tathagata exists after death, or the Tathagata doesnot exist after death. The Tathagata both exists and does not exist afterdeath. The Tathagata neither exists nor not exists after death.’ To explainthese thing is a waste of time.”

(N)Bảy Nơi Đặc Biệt sau khi Đức Phật thành đạo
SevenSpecial places after the Buddha’s Enlightenment

(I)Tổng quan về Bảy nơi Đức Phật thiền định trong khi vàsau khi đại giác—An overview of the Seven Special placesafter the Buddha’s Enlightenment: Sau khi giác ngộ, người ta nóiĐức Phật đã tắm trong hồ Đế Thích (Sakra). Hai cái hồvẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, một nằm trong thôn PipalPati, và cái khác tên Muchilinda nằm trong thôn Tikahigha, nằmvề phía Đông của cái kia. Sau khi tắm trong hồ Đế Thích,Đức Phật lại ngồi kiết già dưới chân cội Bồ Đề,ngắm nhìn cây Bồ Đề này trong suốt 7 ngày trong hạnh phúcNiết Bàn. Tuần lễ thứ nhì Ngài đi tới đi lui gần câyBồ Đề. Vị trí nơi Đức Phật đi ngày nay được biếtđến như là khu kinh hành Điện Châu Bảo, nằm dọc phía Bắccủa Tháp Đại Giác. Những dấu chân của Phật được tiêubiểu bằng những hoa sen trên một cái bục được xây hẹp,dài khoảng 18 mét (53 bộ Anh), rộng khoảng trên 1 thước (3,6bộ Anh) và cao cũng hơn 1 mét—After Enlightenment, the Buddha issaid to have bathed in the Sakra tank. The two tanks which now still exist,one in the Pipal Pati hamlet, south of Buddha Pokhara and the other isthe Tikahigha hamlet, east of the former, seem to be the tanks, Sakra andMuchilinda respectively. After taking a bath in the Sakra tank, the Buddhasat cross-legged at the foot of the Bodhi Tree gazing at it for seven days,enjoying the bliss of Nirvana. He spent the second week in walking to andfro near the Bodhi Tree. The site the Buddha’s Promenade also known as“Shrine of the Jewel Walk,” is along the northern side of the MahaBodhi Temple. The foot-steps of the Buddha are represented by lotus flowerson a narrow masonry platform about 53 feet long, 3.6 feet broad and a littlemore than 3 feet high.

(II)Chi tiết về Bảy nơi Đức Phật thiền định trong khi vàsau khi đại giác—Details of the Seven Special places afterthe Buddha’s Enlightenment:

1)Kim Cang Tòa—Diamond Throne: Kim Cang Tòa tọa lạc giữa cây BồĐề và Tháp Đại Giác. Tòa được xây bằng đá, dài khoảng2,5 mét (7,6 bộ Anh), rộng khoảng 1,6 mét (4,10 bộ Anh), vàcao khoảng 1 mét, nơi Thái Tử Tất Đạt Đa đã thành Phậtvà cũng là nơi thiêng liêng nhất trong các thánh tích đốivới thế giới Phật giáo. Người ta nói Kim Cang Tòa là vịtrí không thay đổi cho sự giác ngộ của chư Phật và cũnglà cái nôi của thế giới. Không có nơi nào có thể chịuđược sức giác ngộ của Đức Phật và không ai có thểbay ngay trên Kim Cang Tòa, ngay cả vị trời Đế Thích—TheDiamond Throne or Vajrasana is situated between the Bodhi Tree and theMaha Bodhi temple. This seat is made of stone which is 7.6 feet long, 4.10feet broad and 3 feet high, where Prince Siddharttha sat to become Buddhaand which is the holiest of holy places to the Buddhist world. It is saidthat Diamond Throne is the immutable place for the Enlightenment of allthe Buddhas and it is also the navel of the earth. No other place can supportthe weight of the Buddha’s Enlightenment and none can travel in the airimmediately above it, not even Sakka or Indra.

2)Tháp Animeshalochana—Animeshalochana Stupa: Tháp Animeshalocana tọalạc trong sân Tháp Đại Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng.Đây là một ngôi tháp nhỏ được dựng lên tại nơi ĐứcPhật đã đứng trong suốt tuần lễ thứ ba để cảm niệmân đức của cây Bồ Đề đã che nắng che mưa cho Ngài trongsuốt thời gian Ngài thiền định để đạt đến đại giác.Tháp được xây bằng gạch, một số được chạm khắc. Nềntháp hình vuông, nhọn về hướng đỉnh, với chiều cao khoảng55 bộ Anh—The Animeshalocana stupa is located within the courtyardof the Maha Bodhi Temple in Bodhgaya. This is a small stupa erected atthe site where the Buddha stood during the third week, out of gratitude,stood gazing at the Bodhi Tree for giving him shelter, while he attainedSupreme Enlightenment. The stupa was built in bricks, some of which arecarved. It is square at the base and, tapering towards the top, the heightbeing 55 feet.

3)Tháp Chankramana—Chankramana Chaitya: Tháp Chankramana nằm tạivị trí được đánh dấu bằng một cái bục cao nằm dọctheo hướng Bắc của Đại Tháp Giác Ngộ ở Bồ Đề ĐạoTràng. Chính tại nơi này, Đức Phật đã trải qua một tuầnlễ thiền hành đi lên đi xuống. Bục cao khoảng 1 mét (3 bộAnh) và dài khoảng 20 mét (60 bộ Anh). Những dãy cột vẫncòn đến ngày nay, cho thấy đường kinh hành dọc theo nhữngchiếc cột bằng đá có lẽ được dùng để nâng mái nhàbên trên. Trên bục có những hoa sen chỉ những dấu chân Phậttrong khi kinh hành—The site is marked by a raised platform along thenorthern wall of the main temple of Maha Bodhi Temple at Bodhgaya. At thisplace, the Buddha spent one week walking up and down in meditation. Theplatform is 3 feet high and 60 feet long. The stumps of pillars, stillexisting, indicate that the walk was flanked with stone pillars which probablysupported a roof over it. On the platform, there are lotuses to indicatethe place where the Buddha’s feet rested while walking.

4)Tháp Ratanagraha Chaitya—Ratanagraha Chaitya: Tháp Ratanagraha Chaityalà một ngôi tháp thờ không có nóc, đánh dấu nơi Đức Phậtđã trải qua tuần lễ thứ tư sau khi Ngài đạt được đạigiác. Tại đây Ngài đã thiền định và tụng kinh “SamantsPathana.” Trong khi thiền định, những ánh sáng sắc xanh, vàng,đỏ, trắng, cam... từ kim thân của Ngài chiếu tỏa ra. Lácờ Phật giáo tại Ấn Độ và Tích Lan được phác họa ratừ những màu sắc này—A small roofless shrine, marks the placewhere the Buddha spent the fourth week in meditation and recited to himself“Samants Pathana.” While in contemplation, the blue, yellow, red, white,and orange rays emanated from his body. The Buddhist Flag of India andCeylon are designed with these colors.

5)Cây Rajayatana—Rajayatana Tree: Dưới gốc cây này Đức Phậtđã trải qua suốt tuần lễ thứ bảy sau khi Ngài đạt đượcđại giác. Chưa ai biết địa điểm chính xác. Người ta nóiĐức Phật ngồi trên một phiến đá trồi lên từ dướiđất, và chính tại nơi này Ngài đã quy-y cho Tapussa và Balluka,hai thương nhân từ Utkala, bây giờ là Orissa. Từ cây Rajayatana,mà vị trí cũng chưa được xác định, Đức Phật đã đitrở lại cây Bồ Đề và sau đó đi về hướng Vườn LộcUyển ở Ba La Nại, bây giờ là Isipatana—The tree under whichthe Buddha spent the seventh week after his Supreme Enlightenment. Theactual site is not known yet. The Buddha is said to have sat on a stoneseat which sprang up there from the ground and there he made his firstconverts, Tapussa and Balluka, two merchants from Utkala, modern Orissa.From the Rajayatana tree, the site of which has not been identified yet,the Buddha returned to the Bodhi Tree and, after sometime, thoughtfullyproceeded to the Deer Park at Sarnath, modern Isipatana.

6)Cây Ajapala Nigrodha—Ajapala Nigrodha Tree: Ngay dưới cây AjapalaNigrodha, nàng Sujata đã dâng bát cháo sữa cho Đức Phật trướckhi Ngài đi đến Bồ Đề Đạo Tràng. Người ta nói ĐứcPhật đã trải qua tuần lễ thứ 5 tại đây sau khi Ngài đạtđược đại giác. Vị trí chính xác chưa được xác định,nhưng người ta chỉ lại là vị trí cây đứng tại ngôi đềnẤn giáo trong làng Bakraur, nằm về phía Đông bờ sông Ni LiênThiền. Vị trí ngôi nhà của nàng Sujata cũng ở gần đó—Itwas under this tree that Sujata offered milk-rice to the Buddha beforehe left for the Bodhi Tree. Here he is said to have spent the fifth weekafter His Supreme Enlightenment. The actual site of this tree has not beenidentified yet, but a place within the premises of a Hindu temple in thevillage of Bakraur on the eastern bank of Nerajara river is pointed outas the site where this tree stood. The site of Sujata Kutir is nearby.

7)Hồ Mucalinda—Mucalinda Lake: Một cái hồ nổi tiếng ở BồĐề Đạo Tràng, khoảng 2 cây số về phía Nam của hồ HoaSen, nơi Đức Phật đã trải qua tuần lễ thứ sáu sau khiNgài đạt được đại giác. Trong khi Đức Phật đang tọathiền gần hồ thì một cơn giông tố lớn xãy ra. Thấy ĐứcPhật bị ướt, Long vương của hồ là “Calinda” xuất hiệnbao bọc quanh Đức Phật và đầu phùng ra bên trên Đức Phật—Afamous lake at Bodhgaya, about 2 kilometers south to the Lotus Tank, ispointed out the spot where the Buddha spent the sixth week. While the Buddhawas meditating near the lake, there broke out a severe thunder storm. Seeingthat the Buddha was getting drenched and Naga king of the lake called “Calinda”came out from his abode and encircling the body of the Buddha, held hishood over him.

(O)Bài Pháp Đầu Tiên
FirstSermon

Bàipháp đầu tiên ngay sau khi Phật đạt được đại giác tạiBồ đề đạo tràng. Phật đã đi vào vườn Lộc uyển tạithành Ba La Nại, để giảng bài pháp đầu tiên về Trung Đạo,Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Tại Vườn Lộc Uyển trongthành Ba La Nại, thoạt đầu Đức Phật bị năm anh em KiềuTrần Như lãng tránh, nhưng khi Đức Phật tiến lại gần họ,họ cảm nhận từ nơi Ngài có những tướng hảo rất đặcbiệt, nên tất cả đều tự động đứng dậy nghênh tiếpNgài. Sau đó năm vị đạo sĩ thỉnh cầu Đức Thế Tôn chỉgiáo những điều Ngài đã giác ngộ. Đức Phật nhân đóđã thuyết Bài Pháp Đầu Tiên: Chuyển Bánh Xe Pháp. Ngài bắtđầu thuyết giảng: “Này các Sa Môn! Các ông nên biết rằngcó bốn Chân Lý. Một là Chân Lý về Khổ. Cuộc sống đầydẫy những khổ đau phiền não như già, bệnh, bất hạnh vàchết chóc. Con người luôn chạy theo các dục lạc, nhưng cuốicùng chỉ tìm thấy khổ đau. Mà ngay khi có được thú vuithì họ cũng nhanh chóng cảm thấy mệt mỏi vì những lạcthú nầy. Không có nơi nào mà con người tìm thấy đượcsự thỏa mãn thật sự hay an lạc hoàn toàn cả. Thứ hai làChân Lý về Nguyên Nhân của Khổ. Khi tâm chúng ta chứa đầylòng tham dục và vọng tưởng chúng ta sẽ gặp mọi điềuđau khổ. Thứ ba là Chân Lý về sự Chấm dứt Khổ. Khi tâmchúng ta tháo gỡ hết tham dục và vọng tưởng thì sự khổđau sẽ chấm dứt. Chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm hạnhphúc không diễn tả được bằng lời. Cuối cùng là ChânLý về Đạo Diệt Khổ. Con đường giúp chúng ta đạt đượctrí tuệ tối thượng.”—After the Buddha’s Enlightenment atBuddha Gaya, he moved slowly across India until he reached the Deer Parknear Benares, where he preached to five ascetics his First Sermon. TheSermon preached about the Middle Way between all extremes, the Four NobleTruths and the Noble Eightfold Path. In the Deer Park, Benares, at firstthe Buddha was ignored by the five brothers of Kaundinya, but as the Buddhaapproached them, they felt that there was something very special abouthim,so they automatically stood up as He drew near. Then the five men,with great respect, invited the Buddha to teach them what He has enlightened.So, the Buddha delivered His First Teaching: Turning the Wheel of the Dharma.He began to preach: “O monk! You must know that there are Four NobleTruths. The first is the Noble Truth of Suffering. Life is filled withthe miseries and afflictions of old age, sickness, unhappiness and death.People chase after pleasure but find only pain. Even when they do findsomething pleasant they soon grow tired of it. Nowhere is there any realsatisfaction or perfect peace. The second is the Noble Truth of the Causeof Suffering. When our mind is filled with greed and desire and wanderingthoughts, sufferings of all types follow. The third is the Noble Truthof the End of Suffering. When we remove all craving, desire, and wanderingthoughts from our mind, sufferings will come to an end. We shall experienceundescribable happiness. And finally, the Noble Truth of the Path. ThePath that helps us reach the ultimate wisdom.”—See Chapters 8 and 20.

(P)Chín Sự Phiền Não của Đức Phật
TheBuddha’s Nine Distresses

Chínsự phiền não hay chín tai nạn mà Đức Phật đã gặp phảikhi Ngài còn tại thế—Nine distresses borne by the Buddha whilehe was still alive.

1)Ngài bị nàng Tôn Đà Lợi phỉ báng thậm tệ: He was badlyslandered by Sundara.
2)Nàng Chiên Già cố làm nhục Ngài bằng cách giả bụng chửarồi vu cáo: Canca tried to dishonor him by pretending to pregnant andfalsely accusing him.
3)Đề Bà Đạt Đa, người em họ của Ngài, đã âm mưu ám sátNgài bằng cách lăn đá xuống đồi khi Ngài đi ngang qua khunúi: Devadatta, his cousin, plotted to assassinate him by rolling stonesdown hill when he passed by the creek.
4)Bị mũi tên tự dưng lao tới đâm vào chân: Pierced by an arrowaccidentally.
5)Bị Lưu Li Vương Thái tử con vua Ba Tư Nặc đem quân đếngiết hết những người trong dòng họ Thích Ca: Son of King Prasenajitkilled all people in the Sakya tribe.
6)Vì lòng từ bi, Ngài nhận lời thỉnh cầu đến nhà một ngườiBà La Môn để nhận cúng dường, nhưng khi đến người ấykhông cúng. Phật và Tăng đoàn của Ngài phải ăn lúa ngựacủa một người chăn ngựa đem cho: Due to his compassion, theBuddha accepted an invitation from a Brahman; however, when the Buddhaand his order arrived, the Brahman refused to serve them. As a result,the Buddha and his order had to accept offering from the stable-keeper.
7)Bị gió lạnh thổi làm đau lưng: Cold wind to cause back pain.
8)Sáu năm khổ hạnh: Six years of ascetics.
9)Vào xóm Bà La Môn khất thực trong ba ngày liền, không ai cúngdường, phải mang bát không về: Entering the village for alms forthree consecutive days without receiving any food (returning with emptybowl).

(Q)Bốn Mươi Sáu Mùa An Cư Kiết Hạ Của Đức Phật
Forty-sixRainy Season Retreats of the Buddha

1)Rsi-patana.
2-4)Rajagrha(skt): Vương Xá.
5)Vaisali: Tỳ Xá Ly.
6)Mankula-parvata.
7)Trayastrimsa Heaven: Đao Lợi Thiên.
8)Bhesakalavana (gần Summanra-giri).
9)Kausambi: Kiều Thường Di.
10)Parikeyyaka.
11)Nala.
12)Veranja.
13)Caliya-parvata.
14)Jetavana in Sravasti: Tịnh Xá Kỳ Hoàn trong thành Xá Vệ.
15)Kapilavastu: Thành Ca Tỳ La Vệ.
16)Alavi.
17)Rajagrha: Thành Vương Xá.
18-19)Caliya-parvata.
20)Rajagrha: Thành Vương Xá.
21-46)Jetavanain Sravasti: Tịnh Xá Kỳ Hoàn trong thành Xá Vệ.

(R)Những lời di giáo cuối cùng của Đức Phật
Lastteachings of the Buddha

(I)Tổng quan về những lời di giáo cuối cùng của Đức Phật—Anoverview of the Last teachings of the Buddha: Khi ngày Phật nhập diệtsắp gần kề, chư Tỳ kheo bịn rịn khôn nguôi. Thấy vậyĐức Phật bèn dạy: “Ứng thân của Phật không thể ởmãi trên thế gian, đây là qui luật tự nhiện, nhưng giáoPháp của ta thì còn mãi. Các người theo đó mà phụng hành.”Kế đó A Nan lại thỉnh cầu Đức Phật bốn việc—When theday of the Buddha’s passing away was drawing near, and the Bhiksus werereluctant for the parting. The Buddha instructed them saying: “The Buddha’sincarnation body cannot say in the world forever. This is the natural law.But my dharma can live on for a long time. You should observe and practiceaccordingto my teachings.” Ananda and others then consulted theBuddha on four things:

(A)Những quan tâm của hàng đệ tử sau khi Phật nhập diệt—Concernsof the Buddha’s disciples after the Buddha’s passing away:
1)Dựa ai làm Thầy?—Who will be the Teacher?
2)Tăng đoàn dựa vào đâu để an trú?—On what ground will theSangha dwell?
3)Làm thế nào để điều phục những Tỳ kheo tính ác?—Howto tame and discipline the ill-natured Bhiksus?
4)Làm thế nào để kết tập kinh điển để mọi người chứngtín?—How to compile the Sutras to establish faith in them?

(B)Đức Phật dạy những lời tuyên thuyết cuối cùng của Ngài(hay Kinh Di Giáo)—The Buddha said his last instructions (or the Sutraof Buddha’s Last Exhortations”:
1)Dựa Giới làm Thầy: Adhere to the Precepts as your Teacher.
2)Dựa Tứ Niệm Xứ để an trú: Dwell on the Four Establishmentsof Mindfulness.
3)Với những Tỳ kheo tính ác thì lặng lẽ mà bỏ: Discreetlyreject the ill-natured Bhiksus.
4)Mọi kinh điển, ở đầu kinh là bốn chữ “Như vầy tôinghe”: In all Sutras, start at the beginning with the four words “ThusHave I Heard.”

(II)Dưới hàng cây Ta La Song Thọ tại thành Câu Thi Na, Đức Phậtđã căn dặn thêm đệ tử của Ngài những lời di giáo cuốicùng như sau—Beneath the Sala Trees at Kusinagara, the Buddhataught his last words to his disciples as follows:

1)Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Hãy về nương nơi chính mình,chớ đừng nương tựa vào bất cứ ai khác: Make yourself a light.Rely upon yourself, do not depend upon anyone else.

2)Hãy lấy giáo pháp của ta làm đuốcmà đi. Hãy nươngvào giáo pháp ấy, chớ đừng nương vào bất cứ giáo phápnào khác: Make my teachings your light. Rely on them; do not rely onany other teaching.

3)Nghĩ về thân thể thì nên nghĩ về sự bất tịnh của nó:Consider your body, think of its impurity.

4)Nghĩ về thân thể thì nên nghĩ rằng cả đau đớn lẫn dễchịu đều là những nhân đau khổ giống nhau, thì làm gìcó chuyện ham chuộng dục vọng?: Consider your body, knowing thatboth its pains and its delight are alike causes of suffering, how can youindulge in its desires?

5)Nghĩ về cái “ngã” nên nghĩ về sự phù du (qua mau) củanó để không rơi vào ảo vọng hay ôm ấp sự ngã mạn vàích kỷ khi biết những thứ nầy sẽ kết thúc bằng khổđau phiền não?: Consider your “self,” think of its transciency,how can you fall into delusion about it and cherish pride and selfishness,knowing that they must end in inevitable suffering and afflictions?

6)Nghĩ về vật chất, các ông hãy tìm xem coi chúng có cái “ngã”tồn tại lâu dài hay không? Có phải chúng chỉ là những kếthợp tạm bợ để rồi chẳng chóng thì chầy, chúng sẽ tanhoại?: Consider substances, can you find among them any enduring “self”? Are they aggregates that sooner or later will break apart and be scattered?

7)Đừng lầm lộn về sự phổ quát của khổ đau, mà hãy ytheo giáo pháp của ta, ngay khi ta đã nhập diệt, là các ôngsẽ đoạn trừ đau khổ. Làm được như vậy, các ông mớiquả thật là đệ tử của Như Lai: Do not be confused by the universalityof suffering, but follow my teaching, even after my death, and you willbe rid of pain. Do this and you will indeed be my disciples.

8)Nầy chúng đệ tử, giáo pháp mà Như Lai đã để lại chocác ông, không nên quên lãng, mà phải luôn xem như bảo vật,phải luôn suy nghiệm và thực hành. Nếu các ông y theo nhữnggiáo pháp ấy mà tu hành, thì các ông sẽ luôn hạnh phúc:My disciples, the teachings that I have given you are never be forgottenor abandoned. They are always to be treasured, they are to be thought about,they are to be practiced. If you follow these teachings, you will alwaysbe happy.

9)Nầy chúng đệ tử, điểm then chốt trong giáo pháp là nhắcnhở các ông kềm giữ tâm mình. Hãy giữ đừng cho tâm “tham”là các đức hạnh của các ông luôn chánh trực. Hãy giữtâm thanh tịnh là lời nói của các ông luôn thành tín. Luônnghĩ rằng đời nầy phù du mộng huyễn là các ông có thểchống lại tham và sân, cũng như tránh được những điềuác: My disciples, the point of the teachings is to control your own mind.Keep your mind from greed, and you will keep your behavior right; keepyour mind pure and your words faithful. By always thinking about the transciencyof your life, you will be able to resist greed and anger, and will be ableto avoid all evils.

10)Nếu các ông thấy tâm mình bị cám dỗ quyện quến bởi thamlam, các ông nên dụng công trì giữ tâm mình. Hãy là chủnhân ông của chính tâm mình: If you find your mind tempted and soentangled in greed, you must try to suppress and control the temptation;be the master of your own mind.

11)Tâm các ông có thể khiến các ông làm Phật, mà tâm ấy cũngcó thể biến các ông thành súc sanh. Hễ mê là ma, hễ ngộtức là Phật. Thế nên các ông phải luôn trì giữ tâm mìnhđừng để cho nó xa rời Chánh Đạo: A man’s mind may make hima Buddha, or it may make him a beast. Misled by error, one becomes a demon;enlightened, one become a Buddha. Therefore, control your mind and do notlet it deviate from the right path.

12)Các ông nên tương kính lẫn nhau, phải luôn tuân thủ giáopháp của Như Lai, chớ không nên tranh chấp. Các ông phảigiống như nước và sữa tương hợp nhau, chớ đừng như nướcvà dầu, không tương hợp với nhau: You should respect each other,follow my teachings, and refrain from disputes. You should not like waterand oil, repel each other, but should like milk and water, mingle together.

13)Chúng đệ tử, các ông nên cùng nhau ôn tầm, học hỏi vàthực hành giáo pháp của Như Lai. Đừng lãng phíthântâm và thì giờ nhàn tản hay tranh cãi. Hãy cùng nhau thụ hưởngnhững bông hoa giác ngộ và quả vị của Chánh Đạo: My disciples,you should always study together, learn together, practise my teachingstogether. Do not waste your mind and time in idleness and quarreling. Enjoythe blossoms of Enlightenment in their season and harvest the fruit ofthe right path.

14)Chúng đệ tử, giáo pháp mà Như Lai đã truyền lại cho cácông là do tự thân Như Lai chứng ngộ, các ông nên kiên thủy nương theo giáo pháp ấy mà tu hành chứng ngộ: My disciples,the teachings which I have given you, I gained by following the path myself.You should follow these teachings and conform to their spirit on everyoccasion.

15)Chúng đệ tử, nếu các ông bỏ bê không y nương theo giáopháp Như Lai mà tu hành, có nghĩa là các ông chưa bao giờ gặpNhư Lai. Cũng có nghĩa là các ông xa Như Lai vạn dậm, cho dùcác ông có đang ở cạnh Như Lai. Ngược lại, nếu các ôngtuân thủ và thực hành giáo pháp ấy, dù ở xa Như Lai vạndậm, các ông cũng đang được cạnh kề Như Lai: My disciples,if you neglect them, it means that you have never really met me. It meansthat you are far from me, even if you are actually with me. But if youaccept and practice my teachings, then you are very near to me, even thoughyou are far away.

16)Chúng đệ tử, Như Lai sắp xa rời các ông đây, nhưng cácông đừng than khóc sầu muộn. Đời là vô thường; khôngai có thể tránh được sự hoại diệt nơi thân. Nhục thânNhư Lai rồi đây cũng sẽ tan hoại như một cái xe mục nátvậy: My disciples, my end is approaching, our parting is near, but donot lament. Life is ever changing; none can escape the disolution of thebody. This I am now to show by my own death, my body falling apart likea dilapidated cart.

17)Các ông không nên bi thương; các ông nên nhận thức rằngkhông có chi là thường hằng và nên giác ngộ thật tánh (tánhkhông) của nhân thế. Đừng ôm ấp những ước vọng khôngtưởng vô giá trị rằng biến dị có thể trở thành thườnghằng: Do not vainly lament, but realize that nothing is permanent andlearn from it the emptiness of human life. Do not cherish the unworthydesire that the changeable might become unchanging.

18)Chúng đệ tử, các ông nên luôn nhớ rằng ma dục vọng phiềnnão luôn tìm cơ hội để lừa gạt tâm các ông. Nếu mộtcon rắn độc đang ở trong phòng của các ông, muốn ngủ yêncác ông phải đuổi nó ra. Các ông phải bứt bỏ những hệphược của dục vọng phiền não và đuổi chúng đi như đuổimột con rắn độc. Các ông phải tích cực bảo hộ tâm mình:My disciples, you should always remember that the demon of worldly desiresis always seeking chances to deceive the mind. If a viper lives in yourroom and you wish to have a peaceful sleep, you must first chase it out.You must break the bonds of worldly passions and drive them away as youwould a viper. You must positively protect your own mind.

19)Chúng đệ tử, giây phút cuối cùng của ta đã tới, các ôngđừng quên rằng cái chết chỉ là sự chấm dứt của thânxác. Thân xác được sanh ra từ tinh cha huyết mẹ, đượcnuôi dưỡng bằng thực phẩm, thì bệnh hoạn và tử vong làđiều không tránh khỏi: My disciples, my last moment has come, donot forget that death is only the end of the physical body. The body wasborn from parents and was nourished by food; just as inevitable are sicknessand death.

20)Nhưng bản chất của một vị Phật không phải là nhục thể,mà là sự giác ngộ Bồ Đề. Một nhục thân phải tử vong,nhưng Trí huệ Bồ Đề sẽ tồn tại mãi mãi trong chơn lýcủa đạo pháp. Ai chỉ thấy ta bằng nhục thể là chưa baogiờ thấy ta; ai chấp nhận và thực hành giáo pháp Như Laimới thật sự thấy được Như Lai: But the true Buddha is nota human body: it is Enlightenment. A human body must die, but the Wisdomof Enlightenment will exist forever in the truth of the Dharma, and inthe practice of the Dharma. He who sees merely my body does not see me.Only he who accepts and practies my teaching truly sees me.

21)Sau khi Như Lai diệt độ, thì giáo pháp của Như Lai chính làĐạo Sư. Những ai y nương theo giáo pháp Như Lai mà tu hànhmới chính là đệ tử thật của Như Lai: After my death, theDharma shall be your teacher. Follow the Dharma and you will be true tome.

22)Trong bốn mươi lăm năm qua, ta chưa từng giữ lại một thứgì trong giáo pháp của ta. Không có gì bí mật, không có gìẩn nghĩa; tất cả đều được chỉ bày rõ ràng cặn kẻ.Hỡi chúng đệ tử thân thương, đây là giây phút cuối cùng.Lát nữa đây ta sẽ nhập Niết Bàn. Và đây là những lờicăn dặn cuối cùng của ta: During the last forty-five years of mylife, I have withheld nothing from my teachings. There is no secret teaching,no hidden meaning; everything has been taught openly and clearly. My deardisciples, this is the end. In a moment, I shall be passing into Nirvana.This is my last instruction.

(III)Lờidi huấn sau cùng của Đức Phật theo kinh Đại Bát Niết Bàn—Buddha’slast instructions to the Sangha in the MahaParinirvana Sutra: Theo kinhĐại Bát Niết Bàn trong Trường Bộ Kinh, quyển 16, trướckhi nhập diệt, Đức Phật đã ân cần dặn dò tứ chúng bằngcách nhắn gửi với ngài A Nan rằng: “Chính vì không thônghiểu Tứ Thánh Đế mà chúng ta phải lăn trôi bấy lâu naytrong vòng luân hồi sanh tử, cả ta và chư vị nữa!” Trongnhững ngày cuối cùng, Đức Phật luôn khuyến giáo chư đệtử nên luôn chú tâm, chánh niệm tỉnh giác tu tập giới địnhhuệ “Giới là như vậy, định là như vậy, tuệ là nhưvậy.” Trong những lời di giáo sau cùng, Đức Thế Tôn đãnhắc nhở A Nan Đa: “Như Lai không nghĩ rằng Ngài phải lãnhđạo giáo đoàn hay giáo đoàn phải lệ thuộc vào Ngài. Vìvậy, này A Nan Đa, hãy làm ngọn đèn cho chính mình. Hãy làmnơi nương tựa cho chính mình. Không đi tìm nơi nương tựabên ngoài. Hãy giữ lấy chánh pháp làm ngọn đèn. Cố giữlấy chánh pháp làm nơi nương tựa. Và này A Nan Đa, thế nàolà vị Tỳ Kheo phải làm ngọn đèn cho chính mình, làm nơinương tựa cho chính mình, không đi tìm nơi nương tựa bênngoài, cố giữ lấy chánh pháp làm ngọn đèn? Ở đây, nàyA Nan Đa, vị Tỳ Kheo sống nhiệt tâm, tinh cần, chánh niệm,tỉnh giác, nhiếp phục tham ái ưu bi ở đời, quán sát thân,thọ, tâm, và pháp.” Tại thành Câu Thi Na, trước khi nhậpdiệt, Đức Phật đã khẳng định với Subhadda, vị đệ tửcuối cùng của Đức Phật: “Này Subhadda, trong bất cứ Phápvà Luật nào, đều không có Bát Thánh Đạo, cũng không thểnào tìm thấy vị Đệ Nhất Sa Môn, Đệ Nhị Sa Môn, ĐệTam Sa Môn, Đệ Tứ Sa Môn. Giờ đây trong Pháp và Luật củaTa, này Subhadda, có Bát Thánh Đạo, lại có cả Đệ nhất,Đệ nhị, Đệ tam, và Đệ tứ Sa Môn nữa. Giáo pháp củacác ngoại đạo sư không có các vị Sa Môn. Này Subhadda, nếuchư đệ tử sống đời chân chính, thế gian này sẽ khôngvắng bóng chư vị Thánh A La Hán. Quả thật giáo lý của cácngoại đạo sưđều vắng bóng chư vị A La Hán cả.Nhưng trong giáo pháp này, mong rằng chư Tỳ Kheo sống đờiphạm hạnh thanh tịnh, để cõi đời không thiếu các bậcThánh.” Đoạn Đức Thế Tôn quay sang tứ chúng để nói lờikhích lệ sau cùng: “Hãy ghi nhớ lời Ta đã dạy các con.Lòng tham và dục vọng là nguyên nhân của mọi khổ đau. Cuộcđời luôn luôn biến đổi vô thường, vậy các con chớ nêntham đắm vào bất cứ thứ gì ở thế gian nầy. Mà cần nỗlực tu hành, cải đổi thân tâm để tìm thấy hạnh phúcchân thật và trường cửu. Này chư Tỳ Kheo, ta khuyến giáochư vị, hãy quán sát kỹ, các pháp hữu vi đều vô thườngbiến hoại, chư vị hãy nỗ lực tinh tấn!”—According tothe Mahaparinirvana Sutra in the Digha Nikaya, volume 16, the Buddha compassionatelyreminded Ananda: “It is through not understanding the Four Noble Truths,o Bhiksus, that we have had to wander so long in this weary path of rebirth,both you and I!” On his last days, the Buddha always reminded his disciplesto be mindful and self-possessed in learning the Three-fold training “Suchis right conduct, such is concentration, and such is wisdom.” In Hislast instructions to the Order, the Buddha told Ananda: “The Tathagatadoes not think that he should lead the Order or the Order is dependenton Him. Therefore, Ananda, be lamps to yourselves. Be a refuge to yourselves.Go to no external refuge. Hold fast to the Dharma as a lamp. Hold fastto the Dharma as a refuge. And how, O Ananda, is a Bhiksu to be a lampto himself, a refuge to himself, going to no external refuge, holding fastto the Dharma as a lamp? Herein, a Bhiksu lives diligent, mindful, andself-possessed, overcoming desire and grief in the world, reflecting onthe body, feeling, and mind and mental objects.” In Kusinagara, the Buddhatold his last disciple, Subhadda: “O Subhadda, in whatever doctrine,the Noble Eightfold Path is not found, neither is there found the firstSamana, nor the second, nor the third, nor the fourth. Now in this doctrineand discipline, O Subhadda, there is the Noble Eightfold Path, and in ittoo, are found the first, the second, the third and the fourth Samanas.The other teachers’ schools are empty of Samanas. If, O Subhadda, thedisciples live rightly, the world would not be void with Arahants. Voidof true Saints are the system of other teachers. But in this one, may theBhiksus live the perfect life, so that the world would not be without saints.”Then the Buddha turned to everyone and said his final exhortation: “Rememberwhat I have taught you. Craving and desire are the cause of all unhappiness.Everything sooner or later must change, so do not become attached to anything.Instead, devote yourself to clearing your mind and finding true and lastinghappiness. Behold now, O Bhiksus, I exhort you! Subject to change are allcomponent things! Strive on with diligence!”

(S)Những Nơi liên hệ đến sự hoạt động của Đức Phật
Placesthat are related to the Buddha’s life and activities

Theongài Pháp Hiển trong Tây Vực Ký, có rất nhiều tháp liênhệ đến những hoạt động của Đức Phật; tuy nhiên, ôngchỉ kể vài quan trọng hay vài cái đánh động đến sự chúý của mình. Những tháp này thường được xây trên nhữngđịa điểm nhằm tưởng niệm Đức Phật—According to Fa-Hsienin the Records of the Western Lands, there were a lot of stupas associatedwith some activities of the Buddha; however, he only mentioned some thatattracted his attention, or some he thought they were important enoughto record in his journal. They usually were stupas that were built overthe places of commemoration of the Buddha:

1)Nơi Thái tử Tất Đạt Đa đản sanh trong vườn Lâm Tỳ Ni:Where Prince Siddhartha Gautama was born at Lumbini garden.

2)Nơi Thái tử Tất Đạt Đa, sau khi ra khỏi cổng thành phíaĐông, trông thấy người bệnh và bảo người đánh xe Xa Nặcquay trở về Ca Tỳ La Vệ: Where Prince Siddhartha Gautama, havingleft the city by Eastern gate, saw a sick man and ordered His charioteerChanna to return to the palace at Kapilavastu.

3)Nơi Thái tử Tất Đạt Đa từ giã Xa Nặc và bạch mã KiềnTrắc ở xứ Ramagrama: Where Prince Siddhartha Gautama dismissed Hischarioteer Channa and His white horse Kanthaka in the country of Ràmagràma.

4)Nơi Đức Phật tu tập 6 năm khổ hạnh: Where the Buddha practicedausterity for six years.

5)Nơi Đức Phật có lần tắm và một vị Trời đã hạ thấpmột cành cây cho Ngài vịn để bước lên khỏi nước: Wherethe Buddha once bathed and a deity lowered a branch of a tree for Him tohold on and step out of the water.

6)Nơi các cô gái dâng sữa và cháo cho Thái tử: Where the maidensof Gramika offered milk and rice to the Prince.

7)Nơi Đức Phật ngồi trên tảng đá quay mặt về hướng Đôngđể dùng cháo: Where the Buddha sat facing east on a rock under a greattree and ate rice.

8)Nơi Thái tử Tất Đạt Đa thành Chánh Giác tại Bồ Đề ĐạoTràng: Where Prince Siddartha Gautama attained Buddhahood at Gaya.

9)Nơi Đức Phật ngắm cây Bồ Đề và thọ hưởng niềm anlạc của sự giải thoát bảy ngày sau khi Ngài giác ngộ tạiBồ Đề Đạo Tràng: Where the Buddha, seven days after His enlightenmentlooked at the Bodhi Tree and enjoyed the bliss of emancipation at Gaya.

10)Nơi Đức Phật kinh hành từ Đông sang Tây trong bảy ngày dướicội Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng: Where the Buddha walkedfrom east to west for seven days under the Bodhi Tree at Gaya.

11)Nơi chư Thiên dựng một đàn cao làm bằng thất bảo đểcúng dường Đức Phật trong bảy ngày tại Bồ Đề ĐạoTràng: Where the deities raised a terrace made of seven precioussubstances to make offerings to the Buddha for seven days at Gaya.

12)Nơi Đức Phật ngồi trên một tảng đá vuông xoay mặt vềphương Đông dưới cây ni câu luật, lúc trời Phạm Thiênhiện xuống thỉnh cầu Ngài thuyết pháp tại Bồ Đề ĐạoTràng: Where the Buddha sat on a square rock facing east under a Nyagrodhatree when Brahma came to invite Him to preach the Dharma at Gaya.

13)Nơi Tứ Thiên Vương cúng dường bát cho Đức Phật tại BồĐề Đạo Tràng: Where four celestial kings presented Him with an alms-bowlat Gaya.

14)Nơi 500 thương gia dâng cúng bột và mật cho Đức Phật tạiBồ Đề Đạo Tràng: Where five hundred merchants offered Him flourand honey at Gaya.

15)Nơi Đức Phật ngồi xoay mặt về phía Đông, lần đầu tiênthuyết pháp hóa độ cho 5 anh em Kiều Trần Như tại vườnLộc Uyển: Where the Buddha sat facing east, preached the first sermonand converted Kaundinya and his companions at Varanasi in the Deer Park.

16)Nơi Đức Phật tiên đoán tương lai của Phật Di Lặc tạivườn Lộc Uyển: Where he predicted the future of Maitreya Buddhaat Varanasi in the Deer Park.

17)Nơi rồng Y bát la hỏi Đức Phật chừng nào nó thoát đượckiếp rồng tại vườn Lộc Uyển: Where the dragon Elàpattra askedthe Buddha when he could be free from his dragon form at Varanasi in theDeer Park.

18)Nơi Đức Phật hóa độ 3 anh em Ca Diếp và một ngàn đệtử của họ tại Bồ Đề Đạo Tràng: Where the Buddha convertedthe three Kasyapa brothers and their thousand disciples at Gaya.

19)Nơi Đức Phật trở về thăm phụ vương tại thành Ca TỳLa Vệ sau khi Ngài giác ngộ: Where the Buddha returned to see Hisfather after His Enlightenment at Kapilavastu.

20)Nơi đất sáu lần rung chuyển khi 500 vương tử dòng ThíchCa đảnh lễ Ưu Ba Li sau khi xuất gia: Where the earth quaked sixtimes when five hundred princes of the Sakya clan worshipped Upali afterhaving renounced their home at Kapilavastu.

21)Nơi Đức Phật thuyết pháp cho chư Thiên trong khi Tứ ThiênVương canh gác bốn cổng để ngăn không cho vua Tịnh Phạnvào tại thành Ca Tỳ La Vệ: Where the Buddha preached the Dharmato the deities while the four celestial kings guarded the four gates ofthe half to prevent king Suddhodana from entering at Kapilavastu.

22)Nơi Đức Phật ngồi dưới cây ni câu luật, xoay mặt vềhướng Đông khi di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề dâng cúng cho Ngàimột cái y tại thành Ca Tỳ La Vệ: Where the Buddha sat facingeast under a nigrodha tree while Mahaprajapati offered Him a robe at Kapilavastu.

23)Nơi vua Trời Đế Thích và Phạm Thiên từ cung trời 33 cùngvới Đức Phật xuống trần tại xứ Tăng Già Thi: Where godsSakra and Brahma came down to earth from Trayastrimsa heaven along withthe Buddha at Samkasya.

24)Nơi Tỳ Kheo Ni Utpala, người đầu tiên đảnh lễ Đức Phậtkhi Ngài từ cõi trời 33 trở xuống tại xứ Tăng Già Thi:Where nun Uptala was the first to worship the Buddha when He came downfrom Trayastrimsa at Samkasya.

25)Nơi Đức Phật giảng pháp cho đệ tử tại xứ Yết Nhã CúcXà: Where the Buddha expounded the Dharma to His disciples at Kanyakubja.

26)Nơi Đức Phật giảng pháp, kinh hành và ngồi thiền tại làngHari: Where the Buddha preached the Law, where He walked and where He satat Hari village.

27)Nơi Đức Phật thuyết pháp cứu độ nhiều người, nơi Ngàikinh hành trong thành Xá Vệ, mỗi tháp đều có tên riêng: Wherethe Buddha preached for the salvation of men, where He walked and whereHe sat at Sravasti city. Each stupa had a distinctive name.

28)Nơi Đức Phật đứng bên vệ đường khi vua Lưu Ly sắp tấncông dòng tộc Thích Ca tại thành Xá Vệ: Where the Buddha stoodby the roadside when king Virudhaka set out to attack the Sakya clan atSravasti.

29)Nơi vua Lưu Ly tàn hại dòng họ Thích Ca và những người nàykhi chết đều đắc sơ quả tại thành Ca Tỳ La Vệ: Whereking Virudhaka slaughtered the descendants of the Sakya Clan who had allattained to the first stage of Sainthood at Kapilavastu.

30)Nơi Đức Phật cảm hóa một ác quỷ, cách vườn Cù Sư Lakhoảng 8 do tuần về phía Đông, thuộc nước Câu Diệm Di:Where the Buddha converted an evil demon, eight yojanas to the east ofthe garden of Ghoshira at Kausamba.

31)Nơi Đức Phật sống, kinh hành và ngồi thiền trong xứ Champa:Where the Buddha lived, where He walked at Champa.

32)Nơi Đức Phật cùng đệ tử rời thành Tỳ Xá Ly bằng cổngphía Tây, và quay về bên phải, nhìn lại đô thành và bảo:“Đây là lần cuối cùng ta viếng thăm.”: Where the Buddhaleft Vaisali with His disciples by the west gate and turning to the rightlooked back at the city and said: “This is the last place I have visited”.

33)Nơi Đức Phật nằm trong một cổ quan tài bằng vàng và đượckỉnh lễ trong bảy ngày tại thành Câu thi na: Where the Buddhalying in a golden coffin received homage for seven days at Kusinara.

34)Nơi Kim Cương Thủ bỏ kiếm vàng tại thành Câu thi na: WhereVajrapanni laid down his golden mace at Kusinara.

35)Nơi Đức Phật nhập Niết Bàn tại thành Câu thi na: Where theBuddha entered into Nirvana at Kusinara.

(T)Hình Ảnh Đức Phật qua Kinh Pháp Cú
TheImage of the Buddha in the Dharmapada Sutra

1)Chẳng ai hơn nổi người đã thắng phục dục tình. Ngườiđã thắng phục dục tình không còn bị thất bại trở lại,huống Phật trí mênh mông không dấu tích, các ngươi lấygì mà hòng cám dỗ được—No one surpasses the one whose conquestis not turned into defeat again. By what track can you lead him? The Awakened,the all perceiving, the trackless? (Dharmapada 179)
2)Người dứt hết trói buộc, ái dục còn khó cám dỗ đượchọ, huống Phật trí mênh mông không dấu tích, các ngươilấy gì mà hòng cám dỗ được ư?—It is difficult to seducethe one that has eradicated all cravings and desires. By which way canyou seduce him? The trackless Buddha of infinite range (Dharmapada 180).
3)Người trí thường ưa tu thiền định, ưa xuất gia và ởchỗ thanh vắng. Người có Chánh niệm và Chánh giác bao giờcũng được sự ái kính của Thiên nhơn—Even the gods envy thewise ones who are intent on meditation, who delight in the peace of renunciation(Dharmapada 181).
4)Được sinh làm người là khó, được sống còn là khó, đượcnghe Chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời là khó—Itis difficult to obtain birth as a human being; it is difficult to havea life of mortals; it is difficult to hear the Correct Law; it is evenrare to meet the Buddha (Dharmapada 182).
5)Chớ làm các điều ác, gắng làm các việc lành, giữ tâmý trong sạch. Ấy lời chư Phật dạy—Not to do evil, to do good,to purify one’s mind, this is the teaching of the Buddhas (Dharmapada183).
6)Chư Phật thường dạy: “Niết bàn là quả vị tối thượng,nhẫn nhục là khổ hạnh tối cao. Xuất gia mà não hại ngườikhác, không gọi là xuất gia Sa-môn.”—The Buddhas say: “Nirvanais supreme, forebearance is the highest austerity. He is not a reclusewho harms another, nor is he an ascetic who oppresses others.” (Dharmapada184)
7)Chớ nên phỉ báng, đừng làm não hại, giữ giới luật tinhnghiêm, uống ăn có chừng mực, riêng ở chỗ tịch tịnh,siêng tu tập thiền định; ấy lời chư Phật dạy—Not toslander, not to harm, but to restrain oneself in accordance with the fundamentalmoral codes, to be moderate in eating, to dwell in secluded abode, to meditateon higher thoughts, this is the teaching of the Buddhas (Dharmapada 185).
8)Giả sử mưa xuống bạc vàng cũng chẳng thỏa mãn đượclòng tham dục. Người trí đã biết rõ sự dâm dật vui ítkhổ nhiều—Even a shower of gold pieces cannot satisfy lust. A wiseman knows that lusts have a short taste, but long suffering (Dharmapada186).
9)Thế nên, dù sự dục lạc ở cõi trời, ngươi cũng chớ sanhtâm mong cầu. Đệ tử các đấng Giác ngộ, chỉ mong cầudiệt trừ ái dục mà thôi—Even in heavenly pleasures the wiseman finds no delight. The disciple of the Supremely Enlightened One delightsonly in the destruction of craving (Dharmapada 187).
10)Vì sợ hãi bất an mà đến quy-y thần núi, quy-y rừng cây,quy-y miễu thờ thọ thần—Men were driven by fear to go to takerefuge in the mountains, in the forests, and in sacred trees (Dharmapada188).
11)Nhưng đó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗquy-y tối thượng, ai quy-y như thế khổ não vẫn còn nguyên—Butthat is not a safe refuge or no such refuge is supreme. A man who has goneto such refuge, is not delivered from all pain and afflictions (Dharmapada189).
12)Trái lại, quy-y Phật, Pháp, Tăng, phát trí huệ chơn chánh—Onthe contrary, he who take refuge in the Buddhas, the Dharma and the angha,sees with right knowledge (Dharmapada 190).
13)Hiểu thấu bốn lẽ mầu: biết khổ, biết khổ nhân, biếtkhổ diệt và biết tám chi Thánh đạo, diệt trừ hết khổnão—With clear understanding of the four noble truths: suffering, thecause of suffering, the destruction of suffering, and the eighfold noblepath which leads to the cessation of suffering (Dharmapada 191).
14)Đó là chỗ quy-y an ổn, là chỗ quy-y tối thượng. Ai quy-yđược như vậy mới giải thoát khổ đau—That is the securerefuge, the supreme refuge. He who has gone to that refuge, is releasedfrom all suffering (Dharmapada 192).
15)Rất khó gặp được các bậc Thánh nhân, vì chẳng thườngcó. Phàm ở đâu có vị Thánh nhơn ra đời thì gia tộc đóđược an lành—It is difficult to find a man with great wisdom, sucha man is not born everywhere. Where such a wise man is born, that familyprospers (Dharmapada 193).
16)Hạnh phúc thay đức Phật ra đời! Hạnh phúc thay diễn nóiChánh pháp! Hạnh phúc thay Tăng già hòa hợp! Hạnh phúc thaydõng tiến đồng tu!—Happy is the birth ofBuddhas! Happy isthe teaching of the True Law! Happy is the harmony in the sangha! Happyis the discipline of the united ones! (Dharmapada 194)
17)Kẻ nào cúng dường những vị đáng cúng dường, hoặc chưPhật hay đệ tử, những vị thoát ly hư vọng, vượt khỏihối hận lo âu—Whoever pays homage and offering, whether to the Buddhasor their disciples, those who have overcome illusions and got rid of griefand lamentation (Dharmapada 195).
18)Công đức của người ấy đã cúng dường các bậc tịchtịnh vô úy ấy, không thể kể lường—The merit of him whor*verences such peaceful and fearless Ones cannot be measured by anyone(Dharmapada 196).

(U)Xá Lợi Phật
TheBuddha’s Sari
TheBuddha’s Relics or remains

(I)Đại cương về xá lợi Phật—An overview of the Buddha’ssari: Những tinh túy của các bậc chân tu. Theo kinh điển, saukhi hỏa thiêu, Phật đã để lại 84.000 viên xá lợi. Chúngtrông giống như những viên ngọc thạch. Tùy theo nghiệp củamỗi người mà họ nhìn thấy xá lợi một cách khác nhau.Theo kinh điển thì trong quá khứcó rất nhiều vị giácngộ đã để lại xá lợi. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn,xá lợi của Ngài được chia làm tám phần và giao cho támvương quốc xây tháp thờ (Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn,Đại Đức Ma Ha Ca Diếp từ núi Kỳ Xà Quật đến thành CâuThi Na làm lễ trà tỳ tức là lễ hỏa táng cho Đức Phật—TheBuddha’s or his disciples’ physical remains or relics. Objects leftbehind by Buddha or other enlightened beings. It comes from their meritsand virtues in Cultivation of the Way. The sutra states (the Buddha leftbehind 84,000 relics) when the Buddha was cremated, his body turned into84,000 saris (relics). These are like gems and depending on each individual’skarma, everyone can look at the same Sari but see completely differentthings. According to the sutras, other enlightened high ranking monks ofthe past also left behind relics.

(II)Sự phân chia xá lợi Phật—Distribution of the Buddha’ssari: Sau khi hỏa táng xong, xá lợi của Phật được dòng MạtLa trong thành Câu Thi Na quản thủ phụng thờ, tuy nhiên, cácvương quốc kế cận đem binh mã đến tranh giành, do đó mọingười đồng ý chia xá lợi của Ngài ra làm 8 phần)—Afterthe Buddha’s nirvana, his relics were divided into eight parts and distributedto eight kingdoms.
1)Thành Câu Thi Na: Kusinaga.
2)Thành Ba bà: Pravari.
3)Thành Giá La: Carya.
4)Thành La Ma Già: Ramaya.
5)Thành Ca Tỳ La Vệ: Kapilavastu.
6)Thành Tỳ Lưu Đề: Virupaksa.
7)Thành Tỳ Xá Ly: Vaisali.
8)Xứ Ma Kiệt Đà: Magadha.

PhậtNgôn:

Hươngchiên đàn, hương đa già la đều là thứ hương vi diệu, nhưngkhông sánh bằng hương người đức hạnh, xông ngát tận chưthiên—Of little account is the fragrance of sandal; the fragrance ofthe virtuous rises up to the gods as the highest (Kinh Pháp Cú—TheDammapada Sutta 56).

Ngườinào thành tựu các giới hạnh, hằng ngày chẳng buông lung,an trụ trong chính trí và giải thoát, thì ác ma không thểdòm ngó được—Mara never finds the path of those who are virtuous,careful in living and freed by right knowledge (Kinh Pháp Cú—The DammapadaSutta 57).

Nhưtừ trong đống bùn nhơ vất bỏ bên đường, mới sinh ra hoasen thanh khiết ngạt ngào làm đẹp ý mọi người—As upona heap of rubbish thrown by the roadside, a sweet smelling, lovely lotusmay grow (Kinh Pháp Cú—The Dammapada Sutta 58).

Khôngtụng tập là vết nhơ của kinh điển, không siêng năng làvết nhơ của nghiệp nhà, biếng nhác là vết nhơ của thânthể và nơi ăn chốn ở, phóng túng là vết nhơ của phéphộ vệ—Non-recitation is the rust of incantation; non-repair is therust of houses; sloth is the rust of bodily beauty; carelessness is therust of the cultivator (watcher) (Kinh Pháp Cú—The Dammapada Sutta241).

Tàhạnh là vết nhơ của người đàn bà, xan lẫn là vết nhơcủa sự bố thí; đối với cõi nầy hay cõi khác, thì tộiác lại chính là vết nhơ—Misconduct is the taint of a woman; stinginessis the taint of a donor. Taints are indeed all evil things, both in thisworld and in the next (Kinh Pháp Cú—The Dammapada Sutta 242).

Tronghết thảy nhơ cấu đó, vô minh cấu là hơn cả. Các ngươicó trừ hết vô minh mới trở thành hàng Tỳ kheo thanh tịnh—Theworst taint is ignorance, the greatest taint. Oh! Bhikshu! Cast aside thistaint and become taintless (Kinh Pháp Cú—The Dammapada Sutta 243).

Chương 1: Đức Phật—the Buddha (2024)

References

Top Articles
Latest Posts
Article information

Author: Madonna Wisozk

Last Updated:

Views: 6481

Rating: 4.8 / 5 (48 voted)

Reviews: 95% of readers found this page helpful

Author information

Name: Madonna Wisozk

Birthday: 2001-02-23

Address: 656 Gerhold Summit, Sidneyberg, FL 78179-2512

Phone: +6742282696652

Job: Customer Banking Liaison

Hobby: Flower arranging, Yo-yoing, Tai chi, Rowing, Macrame, Urban exploration, Knife making

Introduction: My name is Madonna Wisozk, I am a attractive, healthy, thoughtful, faithful, open, vivacious, zany person who loves writing and wants to share my knowledge and understanding with you.